Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Monday, June 19, 2017

ĐƯỜNG THI – CHỦ ĐỀ BIÊN TÁI (KÌ 7) - TS. Nguyễn Ngọc Kiên chọn dịch và giới thiệu thơ


               Tác giả Nguyễn Ngọc Kiên


ĐƯỜNG THI – CHỦ ĐỀ BIÊN TÁI (KÌ 7) 
  
Số này chúng tôi tiếp tục giới thiệu một số bài TÁI THƯỢNG KHÚC và TÁI HẠ KHÚC của các tác giả Nhung Dục, Chu Phac, Lí Bạch, Đới Thúc Luân, Trương Trọng Tố…

NHUNG DỤC (TRUNG ĐƯỜNG)
Nhung Dục 戎昱 (Trung Đường) người Kinh Nam (nay thuộc Giang Lăng, Hồ Bắc, Trung Quốc), đỗ tiến sĩ. Khi Vệ Bá Ngọc giữ Kinh Nam, ông làm tòng sự. Năm Kiến Trung, ông làm thứ sử Thần, Kiền Châu. Thơ có 5 quyển, biên thành 1 quyển trong "Toàn Đường thi".
                                                         (Theo thivien.net)

塞上曲  - 戎昱  
胡風略地燒連山, 
碎葉孤城未下關。 
山頭烽子聲聲叫, 
知是將軍夜獵還。

Phiên âm:
TÁI THƯỢNG KHÚC - NHUNG DỤC
Hồ phong lược địa thiêu Liên Sơn, 
Toái Diệp cô thành vị hạ quan. 
Sơn đầu phong tử thanh thanh khiếu, 
Tri thị tướng quân dạ liệp hoàn.

Dịch nghĩa:
KHÚC HÁT NGOÀI BIÊN ẢI – NHUNG DỤC
Gió Hồ thổi vào đài phong hoả ở Liên Sơn 
Thành Toái Diệp trơ vơ cửa chưa đóng 
Tiếng ngọn lửa ở đài phong hoả đầu núi đang reo phần phật 
Biết rằng đó là lúc tướng quân đi săn về

Dịch thơ:
KHÚC HÁT NGOÀI BIÊN ẢI – NHUNG DỤC
Gió Hồ thổi Liên Sơn phong đài
Toái Diệp thành trơ cửa chẳng cài
Phần phật lửa reo nơi đầu núi
Đi săn tướng đã về đấy thôi.

CHU PHÁC (VÃN ĐƯỜNG)
Chu Phác 周樸 (?-878) tự Kiến Tố 見素 (có nơi nói Thái Phác 太樸), người Ngô Hưng. Theo "Đường tài tử truyện", ông năm sinh không rõ, mất vào năm Càn Phù thứ 5 đời Đường Hy Tông (878). Ông chú trọng làm thơ, ẩn cư ở núi Tung Sơn, thường qua lại cùng với bạn thơ là sư Quán Hưu 貫休, không đoái hoài công danh. Sau ông lánh nạn tới Phúc Châu, ăn nhờ ở chùa núi Ô Thạch. Hoàng Sào chiếm đất Mân, muốn dùng ông. Ông trả lời: "Tôi là xử sĩ, không có con trai, có thể yên tâm theo giặc?", Sào sai giết đi. 

        Thơ ông cực điêu trác, thời đó được gọi là "Nguyệt đoán niên liên" 月煅年鏈 (Tháng nung năm nấu), không được biên thành tập, chỉ truyền miệng. Sau khi ông mất, thơ của ông được sưu tầm trên trăm bài, biên thành 2 quyển truyền trên đời.
                                                        (Theo thivien.net)

塞上曲 - 周朴 
一陣風來一陣沙 
有人行處沒人家 
黃河九曲冰先合 
紫塞三春不見花 

Phiên âm:
TÁI THƯỢNG KHÚC – CHU PHÁC
Nhất trận phong lai nhất trận sa 
Hữu nhân hành xứ, một nhân gia 
Hoàng hà cửu khúc băng tiên hợp 
Tử tái tam xuân bất kiến hoa 

Chú thích: 1/ Hoàng hà cửu khúc, quan ải đóng trên thượng nguồn sông Hoàng hà, khi đó mới là chín con suối nhỏ. 2/ tử tái, quan ải đời Tần khởi xây bằng gạch màu tía, đời Đường vẫn giữ như vậy. 


Dịch nghĩa: 
KHÚC HÁT NGOÀI BIÊN TÁI – CHU PHÁC
Mỗi trận gió tới là một trận bão cát. 
Chỉ có người tới [bổ sung quân số] quan ải chứ không có người được về nhà, 
Chín khúc suối [thượng nguồn] sông Hoàng hà đã đóng băng, 
Đã ba năm nay ở quan ải màu tía này chưa có hoa nở. 

Dịch thơ:
KHÚC HÁT NGOÀI BIÊN TÁI – CHU PHÁC
Bão cát cùng mỗi trận phong ba 
Người đi quan ải, chẳng về nhà
 Hoàng hà chín khúc băng đông đặc
Ải tía ba năm chẳng nở hoa.

塞下曲 - 周朴
石國胡兒向磧東, 
愛吹橫笛引秋風。 
夜來雲雨皆飛盡, 
月照平沙萬里空。

Phiên âm:
TÁI HẠ KHÚC – CHU PHÁC

Thạch quốc Hồ nhi hướng thích đông, 
Ái xuy hoành địch dẫn thu phong. 
Dạ lai vân vũ giai phi tận, 
Nguyệt chiếu bình sa vạn lý không.

Dịch nghĩa:
KHÚC HÁT NGOÀI BIÊN TÁI
Trai Hồ Thạch quốc hướng sang đông 
Thổi sáo dẫn theo ngọn gió thu 
Đêm đến mây mưa bay đi hết 
Trăng soi sa mạc vạn dặm quạnh không.

Dịch thơ:
KHÚC HÁT NGOÀI BIÊN TÁI

 Trai Hồ Thạch quốc hướng sang đông 
Thổi sáo gió thu dẫn theo cùng 
Đêm đến mây mưa đều bay hết 
Trăng soi sa mạc vạn dặm không

塞上曲其一  李白
大漢無中策, 
匈奴犯渭橋。 
五原秋草綠, 
胡馬一何驕。

Phiên âm:
TÁI THƯỢNG KHÚC KÌ I – LÍ BẠCH
Đại Hán vô trung sách, 
Hung Nô phạm Vị Kiều. 
Ngũ Nguyên thu thảo lục, 
Hồ mã nhất hà kiêu.

Dịch nghĩa:
KHÚC HÁT NGOÀI BIÊN ẢI (KÌ I) – LÍ BẠCH
Nhà Đại Hán mưu chước không giỏi 
Quân Hung Nô phạm đến Vị Kiều 
Gò Ngũ Nguyên cỏ thu xanh 
Ngựa rợ Hồ sao hung hăng quá thế.

Dịch nghĩa:
KHÚC HÁT NGOÀI BIÊN ẢI (KÌ I) 

Đại Hán không mưu lược
Hung Nô chiếm Vị Kiều
Ngũ Nguyên cỏ thu biếc
Ngựa Hồ sao quá kiêu! 

ĐỚI THÚC LUÂN (TRUNG ĐƯỜNG)
Đới Thúc Luân 戴叔倫 (732-789) tên chữ là Ấn Công 幼公, người Giang Tô, làm quan đến Phủ Châu thứ sử.
                                                       (Theo thivien.net)


寒上曲 二首其一 - 戴叔倫 
漢家旌幟滿陰山 
不遣胡兒匹馬還 
愿得此身長報國 
何須生入玉門關 

TÁI THƯỢNG KHÚC KÌ I – ĐỚI THÚC LUÂN 
Hán gia tinh xí mãn Âm sơn 
Bất khiển Hồ nhi thất mã hoàn 
Nguyện đắc thử thân trường báo quốc 
Hà tu sinh nhập Ngọc Môn quan 

Chú thích: 1/ Âm sơn, tên núi, nay ở trung bộ Nội Mông. 2/ Ngọc Môn quan, tên cửa ải trọng yếu trên đường buôn bán tơ lụa sang các nước phía tây nước Tàu, cố chỉ nay tại xã Sa châu, huyện Đôn Hoàng tỉnh Cam Túc. 2/ Hán, thi nhân đời Đường muốn viết về Đường, thường phải nói tránh sang Hán để được yên thân. 

Dịch nghĩa: 
KHÚC CA NGOÀI BIÊN ẢI (KÌ I) – ĐỚI THÚC LUÂN 
Bài 1/2 
Cờ xí nhà Hán cắm đầy trên núi Âm, 
khiến không một con ngựa nào của người Hồ dám trở lại. 
Nếu nguyện đem thân báo đền tổ quốc lâu dài, 
thì [nơi đâu chẳng được] đâu cần cứ phải tới Ngọc Môn quan ! 

Dịch thơ:
KHÚC CA NGOÀI BIÊN ẢI (KÌ I)
Nhà Hán cờ xí rợp Âm Sơn
Ngựa Hồ muốn lại sợ hết hồn
Nếu thề đem thân mà báo quốc
Đâu cần phải tới ải Ngọc Môn!

TRƯƠNG TRỌNG TỐ (TRUNG ĐƯỜNG)
Trương Trọng Tố 張仲素 tự Hội Chi 繪之, người Hà Gian 河間, giữc hứcHàn lâm học sĩ đời Đường Hiến Tông.
                                                             (Theo thivien.net)

塞下曲其一 -   張仲素
三戍漁陽再渡遼, 
騂弓在臂劍橫腰。 
匈奴似若知名姓, 
休傍陰山更射雕。

Phiên âm:
TÁI HẠ KHÚC KÌ 1 – TRƯƠNG TRỌNG TỐ 
Tam thú Ngư Dương tái độ Liêu, 
Tinh cung tại tí kiếm hoành yêu. 
Hung Nô tự nhược tri danh tính, 
Hưu bạng Âm Sơn cánh xạ điêu.

Dịch nghĩa: 
KHÚC CA NGOÀI BIÊN ẢI (KÌ I) – TRƯƠNG TRỌNG TỐ

Ba lần đi trấn Ngư Dương, lại theo dòng sông Liêu mà đến, 
Cưỡi ngựa lông đỏ, lưng đeo cung, ngang hông đeo kiếm đi tuần. 
Giặc Hung Nô có lẽ đã nghe danh tiếng, 
Nên chỉ nghỉ ngơi bên mạn bắc núi mà bắn chim điêu chơi.

Dịch thơ:
KHÚC CA NGOÀI BIÊN ẢI (KÌ I)
Tam trấn Ngư Dương xuôi dòng Liêu
Cưỡi ngựa hồng,  cung kiếm mang theo
Hung Nô dường đã nghe danh tiếng
Nghỉ mạn bắc núi bắn chim điêu.

 塞下曲其二 -   張仲素
獵馬千行雁幾雙, 
燕然山下碧油幢。 
傳聲漠北單于破, 
火照旌旗夜受降。

Phiên âm: 
TÁI HẠ KHÚC KÌ  2 – TRƯƠNG TRỌNG TỐ

Liệp mã thiên hàng nhạn kỷ song, 
Yên Nhiên sơn hạ bích du tràng. 
Truyền thanh Mạc Bắc Thiền Vu phá, 
Hoả chiếu tinh kỳ dạ Thụ Hàng.


Dịch nghĩa:
KHÚC HÁT NGOÀI BIÊN TÁI (KÌ 3) -  TRƯƠNG TRỌNG TỐ
Ngựa chiến vạn bầy nhạn có mấy hàng
Yên viên lưu chuyển bích du đây
Tin truyền Mạc Bắc Thiền Vu phá
Cờ xí chiếu sáng rực ban đêm ở Thụ Hàng.

Dịch thơ:
KHÚC HÁT NGOÀI BIÊN TÁI (KÌ 3) -  TRƯƠNG TRỌNG TỐ
Nhạn mấy đôi ngựa chiến vạn bầy 
Yên viên lưu chuyển bích du đây
Tin truyền Mạc Bắc Thiền Vu phá
Cờ xí rực đêm Thụ Hàng này.


塞下曲其三 -   張仲素
朔雪飄飄開雁門, 
平沙曆亂卷蓬根。 
功名恥計擒生數, 
直斬樓蘭報國恩。
 Phiên âm:
TÁI HẠ KHÚC KÌ 3 – TRƯƠNG TRỌNG TỐ
Sóc tuyết phiêu phiêu khai Nhạn Môn, 
Bình sa lịch loạn quyển bồng căn. 
Công danh sỉ hử cầm sinh sổ, 
Trực trảm Lâu Lan báo quốc ân.

Dịch thơ:
KHÚC HÁT NGOÀI BIÊN TÁI (KÌ 3) -  TRƯƠNG TRỌNG TỐ
Tuyết phương bắc rơi xuống ải Nhạn Môn tới tấp, 
Cát trên đất bằng bay loạn xạ, cuốn phăng cả gốc cỏ bồng. 
Nghĩ tới công danh mà xấu hổ vì bắt nhiều tù binh quá, 
Từ nay sẽ chém thật nhiều giăc Lâu Lan để báo đền ơn nước.

Dịch nghĩa:
KHÚC HÁT NGOÀI BIÊN TÁI (KÌ 3)-  TRƯƠNG TRỌNG TỐ
Tuyết bắc rơi dày ải Ngọc Môn
Cát bay loạn xạ cuốn cỏ bồng
Công danh thẹn bắt nhiều binh tướng
Chém hết Lâu Lan để lập công


塞下曲其四 -   張仲素
隴水潺湲隴樹秋, 
征人到此淚雙流。 
鄉關萬里無因見, 
西戍河源早晚休。

TÁI HẠ KHÚC KÌ 4 – TRƯƠNG TRỌNG TỐ
Lũng thuỷ sàn viên Lũng thụ thu, 
Chinh nhân đáo thử lệ song lưu. 
Hương quan vạn lý vô nhân kiến, 
Tây thú Hà nguyên tảo vãn hưu.

Dịch nghĩa:
KHÚC HÁT NGOÀI BIÊN TÁI (KÌ 4)-  TRƯƠNG TRỌNG TỐ
Ở đất Lũng này, sông chảy lừ đừ, cây cối đã vào thu, 
Lính xa nhà ai đến đây cũng buồn rơi hai hàng lệ. 
Quê hương xa vạn dặm không cách gì thấy được, 
Trấn thủ phương tây đầy kênh rạch này không biết đến bao giờ!


 Dịch thơ:
KHÚC HÁT NGOÀI BIÊN TÁI (KÌ 4)-  TRƯƠNG TRỌNG TỐ
Đất Lũng sông chậm cây đã thu
Xa nhà lính chiến mắt lệ mờ
Quê hương vạn dặm bao xa cách
Trấn thủ phương Tây đến bao giờ.

塞下曲其五 
陰磧茫茫塞草肥, 
桔槔烽上暮雲飛。 
交河北望天連海, 
蘇武曾將氣節歸。

Phiên âm:
TÁI HẠ KHÚC KÌ 5 – TRƯƠNG TRỌNG TỐ 
Âm thích mang mang tái thảo phì, 
Kết cao phong thượng mộ vân phi. 
Giao hà bắc vọng thiên liên hải, 
Tô Vũ tằng tương khí tiết quy.

Dịch nghĩa:
KHÚC CA NGOÀI BIÊN TÁI (KÌ 5) – TRƯƠNG TRỌNG TỐ 
 Đất thảo nguyên mênh mông cỏ béo 
Ngọn hoả phong gọi réo mây chiều 
Sông Giao, vọng bắc trời liền với biển 
Tô Vũ đã từng mang khí tiết về.

Dịch thơ:
KHÚC CA NGOÀI BIÊN TÁI – TRƯƠNG TRỌNG TỐ 

Bát ngát thảo nguyên cỏ béo phì
Hỏa phong réo gọi mây chiều đi
Sông Giao vọng bắc trời liền biển
Tô Vũ từng mang khí tiết về

                                                            Nguyễn Ngọc Kiên

No comments: