Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Sunday, August 20, 2017

VỀ LẠI BẾN XƯA - thơ Trúc Thanh Tâm


  

 VỀ LẠI BẾN XƯA

    - Tặng chị Lộc Tưởng và anh Lương Thư Trung.

 Xa người từ chuyến đò trưa
 Nghe sông hát những lời chưa muộn phiền
 Tóc dài nón lá che nghiêng
 Yêu người từ độ hẹn nguyền tóc tơ

 Tình mình đẹp tựa bài thơ
 Áo thơm hơi ấm mắt ngơ ngẩn tình
 Ráng chiều đỏ phía bình minh
 Khổ đau, hạnh phúc cứ rình rập nhau

 Cuộc đời là giấc chiêm bao
 Nên quên và nhớ xé rào nhân duyên
 Trần gian từ lúc đảo điên
 Hồi chuông rung động một tiền kiếp mưa

 Trở về tìm lại bến xưa
 Xa người thuở chiến tranh vừa nổi lên
 Lục bình tím khúc sông quen
 Và mùa xuân cũ chưa quên... tới giờ !

 TRÚC THANH TÂM
 ( Châu Đốc )
READ MORE - VỀ LẠI BẾN XƯA - thơ Trúc Thanh Tâm

HOA MẪU ĐƠN: BIỂU TƯỢNG Ý NGHĨA VÀ TRUYỀN THUYẾT - Nguyên Lạc


                               
Nguyên Lạc                 
HOA MẪU ĐƠN      
BIỂU TƯỢNG Ý NGHĨA 
VÀ TRUYỀN THUYẾT

                                           
PHẦN II   

U Minh tràm đước, cóc kèn (*)
Anh hùng lỡ vận vào rừng bắt ong
Bắt sao trúng phải nỗi buồn
Cảm thương phận bạc, lệ tuôn lưng tròng !

Dõi theo con nước lớn ròng
Bỏ đi trốn bậu mà lòng xốn xang
Mắt sao cứ chảy hai hàng ?
Chèo ghe lướt tới, mà lòng quay lui !
(CHUYỆN TÌNH VÙNG U MINH - NL)

CHUYỆN TÌNH " HOA MẪU ĐƠN " VÙNG U MINH

1. THAI ĐỐ TRONG DỊP TẾ LỄ KỲ YÊN

Thời xưa, ở Nam Bộ, dịp tế lễ Kỳ Yên (cầu an lành) thường bày ra đấu xảo bánh khéo nhất, đấu xảo mâm xôi ngon nhất, ráo nhất. Lại chưng bài vài sản phẩm tượng trưng cho sự bội thu: củ khoai mì nặng cân ít thấy; trái bí rợ to đến mức kỳ dị; con trăn, con rùa to, khó gặp. Nhưng vui nhất có lẽ là "Thai đố ", đã thu hút mọi giới. [Thai đố  (quiz): Đố vui có thưởng]

Chủ trì là một ông kỳ lão đầu bịt khăn đỏ, ngồi ghế, giữa sân, bên cạnh là thúng đầy cam, quít, bưởi (dùng làm vật thưởng). Trước mặt ông là mõ và thanh la, với cây dùi.
Dùng cây dùi gõ vào mõ "cốc, cốc..." khi đoán câu đố sai; gõ vào thanh la nhẹ "beng" khi đoán gần đúng; gõ mạnh và liên hồi thanh la "beng beng beng" để xác nhận đoán đúng và trúng giải.
Thoạt đầu, ra những câu Thai dễ, thí dụ như:

Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi.

- Xuất bỉnh (tên một thứ bánh).
Trẻ 1 hô lớn:  "bánh ướt". Ngụ ý cầu khó đi, có thể té, quần áo ướt mem. Vì gần đúng, ông kỳ lão gõ một tiếng "beng" vào cái phèng la.
Cậu 2  đáp là "bánh tét". Ông kỳ lão gõ một tiếng "cốc", ngụ ý  sai lời giải.
Rốt cuộc, một cậu đáp to : "Cái bánh bò"!.  Tiếng phèng la đổ dồn, khá to, xác nhận cậu ta trúng giải. Cây cầu khó đi thì phải bò, khom lưng.

Và đây là câu đó mà chúng ta cần chú ý

 Kỳ lão ra câu Thai:
- Mẹ thằng cùi!
Xuất mộc (Tên một loài cây)

Vài người thử đáp giải, nhưng được lãnh tiếng " cốc, cốc ", hoặc tiếng "beng" thật nhỏ.
Rốt cuộc, ông kỳ lão ra  Thai tự giải đáp:
- Mẹ là mẫu theo nghĩa chữ Hán.
Đơn là bịnh phong, người nổi đơn, da thịt sưng lên, sần sùi, gọi là bịnh cùi.
Vậy "Mẹ thằng cùi" là " bông mẫu đơn "! (hoa mẫu đơn)
(Thuần Phong Mỹ Tục Việt Nam - Sơn Nam)

Lời giải đáp câu Thái nầy dẫn đến một chuyện tình rất buồn ở vùng U Minh, cực nam Nam Bộ, mà cụ Sơn Nam sẽ kể cho chúng ta nghe.

2. CHUYỆN TÌNH VÙNG U MINH

Đây là câu chuyện tình buồn của Hoàng Mai, cô gái " hoa mẫu đơn" trong HƯƠNG RỪNG của nhà văn Sơn Nam:

[...Ngày ngày lớn khôn, Hoàng Mai càng yên tâm tin tưởng nơi dòng máu quí phái của mình. Cội hoàng mai cổ thụ trước sân, há chẳng là một bằng cớ? Bao năm rồi, nó vẫn bền gan khoe sắc khi gió Tết thổi về; vùng U Minh này mấy ai biết thưởng thức giống hoa vương giả lạc loài! Bản Nam Bình réo rắt trong ruột cây đàn thập lục chỉ để riêng cho nàng thông cảm đó thôi... Nhưng cơ trời không ai ngờ được, tránh được. Mây đẹp của đỉnh Ngự còn có khi tan, nước yên làng của dòng Hương thường bị gợn những làn sóng nhỏ. Năm ngoái, năm kia, khi vừa quá tuổi trăng tròn, một buổi chợt soi mặt vào lu nước mưa, nàng bắt gặp cái màu trắng trong leo lẻo của dàn da mình. Miệng chúm chím hàm tiếu, nàng vuốt mớ tóc đen huyền; bàn tay ngà đặt trên má đỏ hây háy, mơn man chuyền suối tóc về trên sau lưng gầy. Nhưng... lạ kìa! Hàng chục sợi tóc thi nhau tuôn xuống.
Gió nhẹ thoảng qua; chân tóc lấm tấm đung đưa, vướng bận chưa chịu bay đi như còn than van niềm biệt ly vô cớ. Nàng cau mày trở vào phòng, cầm lược chải kỹ. Nàng toan rú lên. Lược đùa đến đâu là tóc rụng đến đó như lá úa trên cành đến độ gió trở mùa. Nàng e thẹn. Nàng giận dỗi.
Thân phụ nàng – Ông hương giáo - chạy tới. Nàng soi gương, không day lại rồi trả lời về tiếng rú khi nãy:
- Không gì lạ đâu, thưa cha.
Ông hương giáo đã hiểu nguồn cơn. Mớ tóc rối nằm cuộng đống trên bàn khiến ông xúc cảm, không che giấu được cơn buồn. Chiếc gương mờ soi đôi má ửng của Hoàng Mai, màu ửng đỏ lạ thường, không biến đổi dầu khi nàng sợ hãi.
- Từ hồi tấm bé, làn da của Haòng Mai mịn quá, bóng quá. Trăm sự đều do đó mà ra...
Ông thở dài, cũng như ông đã thở dài hồi mấy năm trước, tuy gió bấc về không lạnh lắm nhưng Hoàng Mai đòi đốt lửa để sưởi, rồi dẫm chân lên than hồng mà cưòi. Ðêm đến, ông nghe tiếng rên khe khẽ. Ngỡ là con gái nhuốm bịnh, ông đến gọi cửa đôi ba lần. Hoàng Mai nằm đó, tỉnh mà như say, hơi thở hổn hển, đôi mắt úp vào chiếc gối mềm như trốn tránh mấy sợi tơ trăng buông xuống từng hồi, khi gió rạt rào khẽ rung làm hở ra mấy mí lá che trên đầu vách.
Bịnh của nàng, ông doán được, ngặt không muốn nói rõ tên ra: bịnh nan y - bịnh cùi

Tư Lập, tay thanh niên khét tiếng về nghề ăn ong ở xóm Cán Gáo được ông hương giáo mời về nhà, bày rượu thịt thết đãi, đối xử như thượng khách.
Trang gia phổ lại giở ra, đọc nho nhỏ vừa đủ cho Tư Lập nghe. Tư Lập gật đầu.
Trong rừng già này, bên kia Ao Sấu, thỉnh thoảng loài ong ngũ sắc ấy trở về. Ban đầu chú Tư dùng con dao xương nai mà cạo lấy mật, nhưng không hiệu quả. Lần sau, chú mài miếng xương người, dẹp như cây dao, theo ý muốn của ông hương giáo. Ngọc ong đã lấy được, đem về. Chú bán tín bán nghi vì thấy “ngọc” chỉ là mớ nhụy bông quế kết lại thành ké mà loài ong dự trữ bên góc ổ. Từ đấy, ông hương giáo mời Tư Lập ở luôn trong nhà cho có bạn. Ngày đêm, ông chong hàng chục ngọn nến bạch lạp chung quanh mớ “ngọc” để luyện, hy vọng rằng, khi đúng một ngàn ngày, nó sẽ trị được bịnh nan y của Hoàng Mai. Tư Lập như không chú ý đến điều vô lý đó, cứ ra vào nhìn trộm hình dáng giai nhân, rồi nằm trằn trọc... Mãi đến một đêm nọ, lúc đứng ngắm thẫn thờ cội mai già trước sân, chú nghe hơi thở nào ấm nồng, nhồn nhột sau gáy:
- Anh Tư ở đây vui chớ? Nãy giờ em không dám hỏi.
Chú nhìn kỹ: không phải là dạng hồ ly tinh trêu cợt, chính là Hoàng Mai, cô gái con ông hương giáo mà bấy lâu nay chú trộm nhớ thầm thương.
Nàng nói tiếp:
- Cha của em dặn em gọi bằng anh và đừng làm gì anh buồn.
Chú hiểu ý. “À té ra bấy lâu nay ông hương giáo thương mình”. Chú đánh bạo tìm bàn tay nàng. Nàng lắc đầu:
- Em hơi mệt, như vậy...
Rồi nàng nâng tay áo lên, thứ tay áo lỏng thỏng quá rộng quá dài:
- Anh nắm cái chéo tay áo này, em cũng đủ vui rồi.
Cảm đông làm sao!... Và ngạc nhiên làm sao! Một mùi hôi hám từ trong tay áo bay ra  khi níu cái chéo tay áo của người đẹp. Tư Lập thấy rõ ràng bên trong, ngón tay của nàng rụng mất hồi nào, chỉ có năm cuộn vải nhỏ vấn khéo léo thay thế.
Hôm sau, chú viện cớ ra đi lúc mùa bông tràm nở trắng rực. Chú không thèm làm nghề ăn ong nữa. Hàng trăm tấm kèo bằng cây mun, chú giao lại cho ông hương giáo. Chú về ở Long Xuyên ...

Nhưng hương rừng có ma lực quyến rũ. Lúc mới đến thì vui. Ở lâu lại sanh buồn. Xa cách lâu ngày thì đâm ra nhớ không nguôi, không trở lại thì không được.
Chú lại trở về.

Hương rừng ngào ngạt, mùi hương xa lạ nhưng rất quen thuộc. Thằng Kim hít mạnh để hửi cho kỹ, để nhớ cho rõ nhưng nhớ mãi không ra. Chợt ngẩng đầu lên, nó trố mắt. Rừng cơ hồ không còn chiếc lá nào cả! Trên hàng vạn nhánh nhỏ, bàn tay thần nào rắc lấm tấm hằng hà sa số đợt bông gòn, không phải riêng trước mặt mà khắp các tứ phía. Rừng sáng lạn, ai dám nói là rừng âm u? Bông kết oằn sai, mịn màng, trắng tuyết; đài, cánh đâu không thấy chỉ thấy toàn là nhụy ngọt.
Nó buột miệng:
- Rừng cây gì vậy? Chú Tư.
Tư Lập day lại cười vang:
- Thằng quỉ! Hửi mà không biết mùi mật ong sao? Tràm chớ giống gì! Muôn ngàn hũ mật ong của trời ban xuống cho trần gian còn treo lủng lẳng như mù sương trên nửa lừng đó. Hửi vô thì say. Say thì không tỉnh được. Có người toan dùng nó mà luyện thuốc trường sinh, từ trăm năm nay...
 Tư Lập vội ngồi lên xuồng, chụp cây dầm, hờm sẵn:
- Bậy quá! Nó “đi bông” tới đây rồi mất dạng. Chờ một hồi nữa coi.
- Ði bông là gì? Chú Tư.
- Là đi hút nhụy bông... kìa mê quá!
. . .
Một con ong rồi hai con ong bay qua sát ngọn cỏ, lưng ngời những rằn xanh đỏ, hai chân sau quặp lại kẹp hai đốm vàng sậm mà thằng Kim đoán là nhụy bông.
. . .
. . .
... Hoảng hốt, Tư Lập nhảy ra, nắm cườm tay người khách lạ:
- Tao ở nhà ông hương giáo hồi xưa đây mà. Chú mày đến sau nên không biết rõ tao là ai.
Khách trố mắt:
- Trời! Cậu Tư. Về hồi nào! Trời... nãy giờ thấy cây búa, tôi hồ nghi là của cậu. Sao không lại thăm cô Hoàng Mai?
Tư Lập vuốt mồ hôi trán:
- Thôi! Về đi. Nhắn với ông hương giáo rằng tối nay tao tới.
- Buồn lắm! Cô Hoàng Mai yếu nhiều.
Tư Lập thở dài:
- Vậy hả? Ðừng nói nữa. Về trước đi.
Khách rút lui. Tư Lập nói ngậm ngùi:
- Trốn mà không khỏi. Trốn Tây ta là chuyện dễ; trốn người quen là chuyện khó hơn. Ta ăn cắp ổ ong khi nãy mà chi? Nghề ăn ong có nghiệp chướng... Ðây là ổ ong cuối cùng của tao trong nghề...
Thằng Kim hỏi:
- Sao vậy? Ai đau nhiều vậy chú? Cô Hoàng Mai là người bà con...
- Bà con không phải bà con. Người dưng không phải người dưng. Tối nay mày thay mặt tao, lại đó mà thăm ông hương giáo. Phần tao, tao phải xa rừng này. Ở lại đây, mày có dịp học khôn. Ðừng buồn. Ðể tao nói lại đầu đuôi sự tích, hồi năm trước...
. . .
...Ông hương giáo nói:
- Chú em thức hả? Kìa! Trên bàn thờ, từ bao năm rồi, tôi luyện “ngọc ong” để trị bịnh. Bịnh gì, chắc Tư Lập nói sơ cho chú em hiểu rồi. Tôi buồn quá. Tư Lập không trở lại nhà này nữa đâu. Chú em cứ nói thiệt. Phải vậy không?
Thằng Kim nói:
- Dạ cháu không biết. Chú Tư không nói rõ...
- Ta hiểu lắm. Dầu sao, trở về lần này, Tư Lập cũng đã tỏ ra có nghĩa! Ai nỡ câu thúc chí trai của mình trong một xó để đổi lấy chữ nhàn? Ai nỡ bỏ cái danh dự để mua chuộc một chức tước quí phái huyền hão. Từ xưa, tằng tổ của ta cũng vì khí khái ấy mà phò Chúa, xiêu lạc đến đây! Bây giờ ta yếu lắm rồi. Dầu muốn bắt chước Tư Lập, ta cũng không còn đủ sức lực mà bắt chước. Gia thế của ta, thiên hạ đã rõ. Câu thúc Tư Lập ở mãi tại đây chăng? Ta chỉ là người hương giáo, quyền hạn gì? Ừ! Tôi lo là tôi lo cho Hoàng Mai. Năm nay, nó ngồi một chỗ, không còn đủ sức mà ra thăm cội hoàng mai trước ngõ như hồi Tư Lập biết.
Sáng hôm sau, thằng Kim từ giã ông hương giáo rồi đến ngồi bên mé rạch. Bông vừng tươi thắm, cây cối hai bên bờ giao đầu lại, mát mẻ. Nó chờ đón bất cứ xuồng ghe ai, đi về đâu cũng được, để quá giang. Sau lưng nó, trên thềm nhà, trong bóng mát, hình dáng của Hoàng Mai với đôi mắt và mớ tóc trùm kín trong chiếc khăn. Chiếc tay áo của nàng lòng thòng che khuất mấy ngón tay, từ từ nâng lên như tiễn đưa một hình bóng ... ] HƯƠNG RỪNG- Sơn Nam (1)

Chuyện tình cô "bông mẫu đơn" Hoàng Mai buồn quá phải không bạn ? Áng văn tình này của nhà văn Sơn Nam đâu có thua bất cứ áng văn tình nào của các nước ngoài đâu?
Ôi đẹp quá cảnh rừng tràm lúc ong "đi bông". Đẹp quá cảnh sông nước Cửu Long với rừng tràm, rừng đước. Có còn không khi thượng nguồn đã bị ngăn chặn bởi dã tâm của NƯỚC LỚN ?! (2)

NHẠC THƠ VĂN CÓ BIỂU TƯỢNG MẪU ĐƠN

1. THƠ VĂN

11. Thơ văn cổ:
 a. Lưu Vũ Tích: một thi hào đời nhà Ðường có làm bài "Am tửu khán Mẫu đơn" để diễn tả cái tâm lý tự trị của một người già trước sắc đẹp:

Ẩm Tửu Khán Mẫu Đơn
Kim nhật hoa tiền ẩm
Cam tâm túy sổ bôi
Đản sầu hoa hữu ngữ :
Bất vị lão nhân khai

Uống rượu ngắm hoa Mẫu đơn
Hôm nay uống rượu ngắm hoa
Cạn đôi ba chén gọi là mua vui
Chỉ e hoa nói lên lời :
Em không phải nở cho người già nua
(Bản dịch: Tương Như)

b. Truyện Kiều:  Ðoạn miêu tả tên Mã Giám Sinh đến gặp Kiều để mua Kiều về lầu xanh, nhìn sắc đẹp của Kiều, Mã say đắm toan tính:

Mừng thầm: Cờ đã đến tay
Càng nhìn vẻ ngọc càng say khúc vàng
Ðã nên quốc sắc thiên hương
Một cười này hẳn nghìn vàng chẳng ngoa
(Truyện Kiều câu 823 đến 826)

 Tác giả Truyện Kiều mớm miệng cho Mã Giám Sinh, một tên chuyên mua gái bán dâm, đánh giá con người Kiều, bằng cách so sánh bóng bẩy văn vẻ như thế, càng cho ta cảm thấy nỗi đau đớn thấm thía của một kiếp người. Có sắc đẹp "quốc sắc thiên hương" như Kiều mà hắn cho là "cờ đã đến tay" !
Ðoạn nói về Kiều khi ở lầu xanh lần thứ nhất tại Lâm Tri, gặp Thúc Sinh, định theo về làm vợ lẽ; nhưng bị Thúc Ông (cha của Thúc Sinh) đến thưa quan sở tại, bắt Kiều vừa đóng gông, vừa đánh đòn có câu:

Dạy rằng cứ phép gia hình
Ba cây chập lại một cành Mẫu đơn
(câu 1425 và 1426)

 Mẫu đơn ám chỉ  Kiều.
(Theo Ðiển tích Truyện Kiều - NXB Ðồng Tháp)
   
12. Thơ văn hiện đại:

SÁNG CẢM

Sáng nay anh chậm rãi buồn
vì mẫu đơn không chịu nở
anh phát giác ra mình yêu vợ
từ rất lâu
trong khi vợ anh suốt ngày chì chiết
bụng anh bự thế kia
suốt ngày ngồi miết
bịa ra những mối tình thống thiết
mua vui cho người mà mình lại đau
Sáng nay anh ra vườn bắt sâu
không để nó thậm thụt với mẫu đơn hàm tiếu
những nàng quế, tía tô, ngò, hành, đậu bắp buồn rung rinh
anh chợt hiểu
đời mình chỉ đeo đuổi cái phù du hương hoa
vô ơn với rau cỏ nuôi mình
có thêm vitamin qua cơn táo bón
Sáng nay và nhiều buổi sáng khác
anh chỉ bận tâm
tại sao mẫu đơn không chịu nở
tại sao phù dung lại mau tàn
nhưng thế nào cũng hái một bó rau lang
cho nồi canh trong bếp
Rau cỏ ơi !
có bao giờ là hoa đâu
mưa nắng kiếp nào cũng
truyền đời thiêm thiếp
Anh chậm rãi buồn
ngồi vào bàn viết tiếp
vô tích sự những bài thơ
vô dụng những bài thơ
(Nguyễn Hàn Chung)


NGÀY HÁT KHÚC TÌNH THUA

cả đời ta vì một khúc tình thua
mà vác kiếm dạo quanh trời gái đẹp

mỗi quốc sắc chỉ một lần được chết
đã đâu yên – kìa năm bảy nấm mồ
cái thời ta cầu bại phải ngao du
bài ca cũ dễ chi đành tuyệt tích?

cái thời mỗi tên hoa lần hồi ta xoá sạch
những môi thơm bặm kín nỗi u tình
những kỳ nữ xuôi tay còn trợn mắt
vu oan ta chỉ để nhẹ hồn mình

cái thời mỗi khi ta buồn dừng vó ngựa
là một quan tài lê lếch qua sông
kiếm báu cứ lần chồm lên miệng vỏ
là bên kia trời lật xác thiên hương

thời tóc xanh bay rừng lòng ngạo mạn
đất thẳm trời dày trong tay hảo hán
tiếng cười gằn quên khấy chút khoan dung
đầu tình bay mà lưỡi kiếm còn rung

cái thời dưới khuya sương đau lòng bất bại
giặt áo phơi trăng hát lời độc cô
tiếng hát nổi chìm truyền ra miệng thế
mỗi khen chê đủ dằn mặt giang hồ:

“…thèm nhát kiếm lia ngang trời kiêu bạc
trần gian ơi, tri kỷ dễ còn ai ?
ráng huề giùm ta ví không thắng được
cho ta riêng ngậm thử chút tình hoài…”
*
em thuở ấy hẳn chưa từng biết mộng
trò cung tên chỉ quanh quẩn hiên rào
đâu tưởng nổi có lần em bắn trúng
con chim về từ cõi biển xanh dâu

đâu tưởng nổi lòng chưa khuây gió sóng
tóc đôi màu còn ướt ngọn sương mưa
lại có thể ta bàng hoàng chết lặng
mũi tên buông sau một nhát gươm đùa

đâu tưởng nổi ngày ta thèm qui ẩn
lại bất ngờ được hát khúc tình thua …
(Hoàng Lộc)

2. NHẠC

Xin giới thiệu đến các bạn bài nhạc rất dịu dàng của nhạc sĩ Trần Hoàng Thụy, nói về sự cay đắng của hoa rụng với giọng ca Hoàng Nga: NGẮM HOA

Ngắm hoa
Hôm qua người ngắm hoa còn thắm
Mà sớm nay hoa đã rụng tơi bời
Có phải bao nhiêu là cay đắng
Hoa kia đã nhận bớt cho người
(nhạc Trần hoàng Thụy, thơ Thanh Tùng)
https://www.youtube.com/watch?v=pE_ABeWmas8)

KẾT

Hoa Mẫu đơn là biểu tượng của sự thịnh vượng, phồn vinh, là “hoa phú quý” . Mẫu đơn là loài hoa vương giả sang trọng ở Trung Quốc, biểu tượng cho sự giàu có, thịnh vượng và sắc đẹp.
Hoa Mẫu  đơn đóa lớn rực rỡ lạ thường, hương thơm áp đảo mọi loài hoa khác. Vì vậy người ta còn gọi là “bách hoa vương”. Bông hoa quốc sắc thiên hương này từng rất được ưu ái qua nhiều triều đại, với mệnh danh “Chúa của muôn hoa”. Nhất là giai đoạn từ thế kỷ 5 đến thế kỷ 13 sau Công Nguyên. Mẫu đơn được ca tụng trong văn thơ, nhạc và tranh vẽ lúc bấy giờ.
Người ta dùng từ “quốc sắc thiên hương” (sắc nước hương trời) để hình dung hoa mẫu đơn. Hoặc có cách phác họa khác là: “Thiên hạ chân hoa độc mẫu đơn” (chỉ có mẫu đơn mới xứng đáng là hoa thật trong thiên hạ)
Mẫu đơn là một thứ hoa thơm, đẹp quý nhất trong các loại hoa, được gọi là Vương hoa. Cho nên có thể cho rằng khi nói "Quốc sắc thiên hương" là để ám chỉ một tuyệt sắc giai nhân với hoa Mẫu đơn. Những người đẹp trong thi văn, lịch sử như nàng Kiều của Nguyễn Du,  Dương Quý Phi, Tây Thi, hay Vương Chiêu Quân ... thường được ví như hoa Mẫu Đơn, với cụm từ "sắc nước hương trời" hay "quốc sắc thiên hương" này.
Đó những lý do các thi nhân thường dùng hình ảnh hoa Mẫu đơn  trong các bài thơ của mình.
Qua trên là những lời Nguyên Lạc viết rõ để giúp  các bạn hiểu thêm được cái hay, đẹp  của các bài thơ có BÓNG DÁNG MẪU ĐƠN.

Nguyên Lạc        TX 2017
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Nguồn:
Ðiển tích Truyện Kiều, Tâm Linh Huyền Bí.net ,daohoavien.com, Tinhhoa.net,  Đại kỷ nguyên,
Tổng hợp về hoa Mẫu Đơn ( từ Internet ) Huỳnh Huệ ...

Hình ảnh:
Hoa Mẫu Đơn ( ROSE PARK VIỆT NAM)
https://www.youtube.com/watch?v=g5kVBcIoisQ
Peony -Hoa Mẫu đơn
https://www.youtube.com/watch?v=n6ud6QmzfE4
Peonies.avi (PPS)
https://www.youtube.com/watch?v=7_jUQJWIvFc
http://vietmessenger.com/books/?title=huong%20rung%20ca%20mau&page=15

Ghi chú:
(*) Cây cóc kèn: Derris trifoliata rất phổ biến trong những vùng ngập mặn, rừng sác mangroves, là loại cây bò trường thuộc họ Fabaceae.
(1) Sơn Nam:  http://vietmessenger.com/books/?author=son%20nam
(2) Nhà văn Ngô Thế Vinh: Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng
http://damau.org/archives/4409
https://uyennguyen.net/?s=ngo+the+vinh&x=7&y=3
@Nhạc:  Ngắm hoa (nhạc Trần hoàng Thụy, thơ Thanh Tùng)
https://www.youtube.com/watch?v=pE_ABeWmas8)




READ MORE - HOA MẪU ĐƠN: BIỂU TƯỢNG Ý NGHĨA VÀ TRUYỀN THUYẾT - Nguyên Lạc

ĐỪNG BAO GIỜ LÀ TÔI! - Truyện ngắn Trạch An - Trần Hữu Hội


Tác giả Trạch An - Trần  Hữu Hội



ĐỪNG BAO GIỜ LÀ TÔI!

Truyện ngắn Trạch An - Trần Hữu Hội
                                      
                                                                
 “Con thú ăn thịt đồng loại rồi đi ngủ.     
Con người làm trái rồi ăn năn. ”                                               (François-René de Chateaubriand )
     

          
Tôi nói với con gái:
 - Con cho ba ghé chỗ bác Trung vé số nghe. Ba ngồi chơi với Bác, khi nào ba gọi thì ra chở ba về.
Đứa con gài tấp xe vào quán cà phê Tùng, nơi có quầy vé số của anh Trung. Từ ngày vào Sài gòn định cư, tôi thường hay nhờ con chở đến chỗ anh Trung, Tôi quen biết anh ban đầu là một hai lần mua vé số, thấy anh cởi mỡ, tôi thường ghé chơi, có khi mua vài tấm vé, có khi không… chuyện trò cùng anh là chính.
Sáng nay, đi cắt tóc về, tôi nhờ con chở thẳng đến anh Trung ngồi chơi.
Vừa thấy tôi, anh đã đưa tay vẩy chào, miệng hô to vào quán:
- Hai ly cà phê cho hai thằng già này nghe cháu!
Cô bé bàn quán ngững mặt nhìn rồi gật đầu chào tôi, cũng là tỏ cho anh Trung biết là đã nghe thấy, cô bé đi vào quầy…Anh kéo cho tôi cái ghế có chỗ tựa lưng rồi ngồi xuống dán mắt vào tờ báo cũ.
- Có tin gì mới và gay cấn lắm ha anh Trung?
- Không, báo từ đời nao rồi, nhưng có cái này hay hay, chú đợi chút tôi đưa chú xem…
Tôi ngồi xuống ghế, nghiêng người bỏ cặp nạng tựa vào gốc cây, châm điếu thuốc rồi nhìn vu vơ ra đường trong khi anh Trung vẫn chăm chú với tờ bào.
Tôi thích chuyện trò với anh vì anh là người có tâm có tình, ngồi bán vé số, anh gặp nhiều người và biết được nhiều chuyện đời khá thú vị. lại nữa, những hiểu biết của anh rất phù hợp với tôi, tính ra anh chỉ hơn tôi bốn tuổi, học trước tôi vài năm, ngày tôi học lớp 11, thì anh rớt tú tài II, dăng linh, khóa 4 năm 1971 trường Bộ Binh Thủ Đức. Anh không xuất cảnh được vì chỉ cải tạo hai năm, hai lần trọng cấm trong ba năm lính, đến ngày 30/4/75 anh trình diện với cấp bậc thiếu úy ĐPQ. Nghĩa là ra trường chuẩn úy, 18 tháng sau, anh lên Thiếu úy đúng như quy đinh, rồi nằm đó cho đến khi đi cải tao! Bạn bè cùng khóa anh ra tác chiến, phần nhiều lên Trung úy, có người cố Đại úy và cải tạo trên ba năm nên giờ ở hải ngoại rất đông. Lâu lâu anh có tí quà từ bạn bè, bao giờ anh cũng kéo tôi đi làm vài lon đưa  cay với dĩa mồi to tướng.
Nhiều người biết anh là sĩ quan, không được xuất cảnh, khơi lại chuyện cũ, anh cười nói:
- Con người có số cả rồi, xuất ngoại cũng phải có số xuất ngoại chứ.
 Hồi mãn khóa, anh nắm trong số tốt nghiệp từ 1 đến 10, được chọn đơn vị, vì có mẹ già nên anh chọn Tiểu khu Biên Hòa, ĐPQ.
Chiến sự năm 1972 rất căng thẳng, bạn bè phần nhiều chọn Dù hoặc Biệt Động Quân.
Khi biết anh về Tiểu Khu, bạn bè đùa, ném cho anh những chiếc mũ đen :
- Cho mày, về  "Rùa” đội, tụi tao có nón khác!
Nóng máu, anh muốn chọn Dù cùng các bạn ra tái chiếm Cổ Thành…nhưng Mẹ và chị anh khóc lóc, không cho.
Khi anh chưa hết phép mãn khóa, bốn thằng bạn cùng Đại Đội anh về Dù, đã nằm xuống nơi ấy. Số còn lại, bây giờ đang ở Mỹ, những lần về Việt Nam, gặp lại nhau, khi tuổi đời đã gần thất thập, ôn chuyện quân trường, chuyện lính tráng sinh tử cận kề, ai cũng cho là mỗi người có một số mệnh riêng…Ngồi bán vé số bên đường như anh Trung chưa chắc đã khổ, sung túc ở hải ngoại làm kiếp lưu dân chưa chắc đã là hạnh phúc…
Chưa cầm súng ngày nào nhưng lại sống trong thời đất nước loạn lạc, bạn bè tôi cũng nhiều người nằm xuống trên chiến trường, nên tối rất đồng cảm với những chuyện anh Trung kể.
                                                        oOo
Khi cô bé mang cà phê ra cũng là lúc anh Trung rời mắt khỏi tờ báo:
- Không biết chú có khi nào gặp tâm trạng này chưa?! Đọc đoạn này này…
Tôi nhận tờ báo từ tay anh.
“…Bây giờ, việc thi hành án cho một tử tù bằng hình thức tiêm thuốc độc vô cùng rắc rối. Nếu phạm nhân nằm ở trại giam đã xây dựng "phòng" tiêm thuốc độc thì còn đơn giản, nhưng nếu ở các tỉnh xa thì không đùa được. Cả một đoàn người trong ban tổ chức thi hành án gồm hàng chục cán bộ của công an, tòa án, viện kiểm sát, cảnh sát bảo vệ, pháp y. Cảnh sát dẫn giải phạm nhân phải đi từ nửa đêm gà gáy, vượt quãng đường có khi hàng trăm cây số để đến trung tâm thì mệt mỏi đến mức thế nào.
Nhưng rắc rối nhất, khó khăn nhất lại chưa phải là chuyện đó, mà là từ việc “ai sẽ là người lấy ven, chọc kim vào tay tử tù?”.
Thế mới có chuyện rằng, để một bác sĩ lấy ven tử tù, người ta đã phải làm một văn bản gần như đánh lừa người bác sĩ đó với một cụm từ hết sức mơ hồ là "hỗ trợ". Tất nhiên, sau lần ấy thì chắc chắn người bác sĩ này sẽ không bao giờ tham gia nữa.
Rồi lại có chuyện ở đơn vị công an nọ, tìm mãi không ra người lấy ven, tiêm thuốc cho tử tù. Cuối cùng, họ tuyển một cô mới học Trung cấp Y kèm theo lời hứa, nếu chịu làm công việc ấy thì cho vào biên chế để cô gái nhận lời. Không hiểu rồi cô gái ấy sẽ làm được công việc này trong bao lâu?
“…Có anh lính mới, láu cá lắm, phải làm nhiệm vụ, anh ta sợ ám ảnh nên cố tình không bắn vào tim tử tù (vị trí có dán cái băng dính để làm “cọc tiêu”), mà anh ta bắn vào chân tay họ, rồi tự nhủ “mình không hề giết người”…
Tôi trả tờ báo:
- Có gì đâu anh?
- Nỗi ám ảnh, lòng hối hận! Không biết bây giờ thế nào. Tôi nghe nói, ngày trước, tiểu dội hành quyết có 12 người, mỗi cây súng chỉ có một viên đạn, lấy từ 12 viên đạn trước mặt, trong 12 viên dạn đó có một viên đạn giả, không gây chết người, vậy là mỗi người trong đội hành quyết ai cũng hy vọng là mình đã chọn đúng và đã bắn viên đạn ấy, yên tâm mình không giết người, không đem cài chết đến cho tử tủ. Trong chiến tranh, giữa trận mạc, bắn búa xua chẳng chủ tâm trúng ai, có khi nhiều người chết vì đạn của mình nhưng mình không hề biết và không ray rứt, nhưng khi dối phương vô tư trong tầm đạn, nâng súng lên ta không dám bắn, không phải vì ta hèn, mà vì ta sợ chính lương tâm mình! Tôi cũng đã có lần như thế!
- Anh kể đi.
- Ừ. Anh Trung nhấp ngụm cà phê, chậm rải: Hồi đó, đang có hiệp định ngưng bắn, tôi đóng quân ở Hố Đá, Biên Hòa. Trung đội tôi nằm bên con suối, án ngữ con đường vào làng. Tiếng thì ngưng bắn nhưng bên kia cứ thấy bên này sơ hở là tấn công, cắm cờ dành đất, vì thế nên luôn luôn phải đặt trong tình trạng báo động, căng thẳng hơn cà lúc không ngưng bắn. Để giữ đất, nên trung đội tôi chia mỏng thành 3 toán. Mỗi toán một tiểu đội trừ! Chiều hôm đó, sau cơm tối xong, tôi ngồi với trung sĩ trung đội phó, bên máy truyền tin. Bất chợt, tôi thấy một chú vi xi trẻ măng, quàng một lá cờ Xanh đỏ quanh cổ đi ngang trước mặt, cách chừng 15 mét, tôi với tay cầm cây M 16 lên, với tầm này thì không cần nhắm nhiếc gì, bóp nguyên băng là nó tiêu. Tay trung sĩ đưa tay ấn nhè nhẹ mũi súng chúc xuống, tôi nhìn hắn, hắn đưa ngón tay lên miệng ra dấu im lặng. Khi tên vi xi khất xa về phía làng, tôi hỏi:
- Sao vậy?
- Thứ nhất là sai chiến thuật, biết đâu đây là thằng cảnh giới đi trước, đàng sau là cả trung đôi, đại đội. Thứ hai là ông liệu có quên được hình ảnh nó chết trước mắt bởi loạt đạn của chính ông trong khi lệnh ngưng bắn vẫn còn hiệu lực không?!
 - Khoảng một giờ sau, khi tay trung sĩ xuống suối pha ca phê, tôi đang ngồi nhìn về hướng Biên Hòa thì chính thằng vi xi trẻ kia quay lại, lần này thí hí hửng lơn tơn, là cờ vẫn còn quấn ngang cổ, trên lưng đeo ba lô, trên ba lô còn có mấy đòn bánh tét. Tôi nâng súng lên, hướng về phía cậu ta,  bụng nhủ thầm: “Hai lần rồi nghe nhóc con, mày mà cắm là cờ trong làng là mai bỏ mẹ tao!”
Đêm đó yên lành và cả ngày mai cũng không có rắc rối nào, tôi nhẹ người! Có nhiều khi ta thở phào như vậy lắm trong đời.  Nhiều năm sau này, tôi cũng một lần nữa thở phào, cảm ơn trên đã không đễ tôi sai phạm…
Tôi nhìn anh hỏi:
- Sao anh ?
Anh Trung lại nhấp ngụm cà phê, tay sửa mấy xấp vé ngay ngắn dưới mấy hàng dây thun…
- Dạo đó, vào những năm 79-80, đói kém lắm, Tôi xót xa đến đứt ruột mỗi khi nhìn đứa con gái tôi nổi ghẻ chốc đầy người vì ăn không có chất, vợ tôi xanh xao, môi thì lỡ loét, rát đau mỗi lần đưa thức ăn vào miệng hay uống nước! Tôi xin vào làm bốc vác cho một nông trường cao su ở Đồng Nai mong kiếm tí tiêu chuẩn Gạo, mắm muối…cải thiên cuộc sống! Tay kế toán công ty, biết tôi là sĩ quan cải tạo về, cho tôi lên phụ cho một cô kế toán Đội. Thằng này ăn bẩn khủng khiếp, Công nhân than trời than đất nhưng hắn vẫn thản nhiên tại chức, Giám đốc cũng ghét hắn nhưng không dám đụng vì hắn là em ruột của tổng giám đốc cao su miền Nam. Hắn hài lòng tôi vì tôi chăm chỉ, từ ngày có tôi, sổ sách ít sai, cô kế toán là bồ của hằn nên hằn quan tâm hơi nhiều…Một buổi chiều, hắn gọi điện tới bảo tôi tối chuẩn bị sẵn, sau cơm tối, hắn sẽ đến đón đi chơi…còn dặn: “ Bí mật nhé”. Tối đến hắn chạy chiếc xe Vespa mới cứng đến chở tôi đi. Chiếc xe này hắn mua lại của một Linh mục trong vùng. Chiếc xe được đem từ Ý về hôi ông ấy đi học bên đó,  Ông Cha nhận giáo xứ xong thì 75 ập đến, nó được đắp chiếu từ khi về đến nay vì không có xăng…Tôi không biết hắn đi đâu mà lại chạy vong vèo trong các lô cao su vắng vẻ. Gần một giờ sau mới tới nơi, đó là căn nhà to như biệt thự, cũng nắm trong lô cao su. Hắn đi đánh bạc với những tay đồng liêu, có lẽ cũng là những tên hạm như hắn. Tôi được hắn chỉ vào nằm trên chiếc võng của trạm bảo vệ. hắn dựng xe ở đó rồi vào trong nhà. Tôi nằm trên võng,  lạnh và muỗi không ngủ được. Thì ra hắn đem tôi đi theo vì đoạn đường dái và vắng, hắn sợ cướp, có tôi ngồi sau xe hắn yên tâm hơn. Tôi kéo cao cài mủ của chiếc áo khoác, kéo sợi dây buộc trùm mật cho đỡ muỗi. Gần sáng, hắn đi ra với cái túi xách căng, chật cứng tiền, hắn thắng bạc vơ sạch sòng đêm đó.
Kể đến đây anh Trung ngừng lại nhấp một ngụm cà phê, nhấp thêm ngụm nữa. Hỏi tôi:
- Chú hồi trước có hay đọc truyện trinh thám không?
- Có, Thích lắm anh.
- Chú có khi nào đọc cách giết người không bằng dao, bằng súng mà bằng dây cước hay dây dù không?
- Có nhiều…mà sao anh?
Anh kể tiếp:
- Ngồi sau lưng tay kế toán gian ác, tôi nảy ra ý định giết hắn đễ cướp cái túi tiền. Tôi rút cái dây nơi áo khoác một cách nhẹ nhàng, vo lại, cầm trong tay. Trong khi đó hắn vô tư chở tôi đi vòng vèo trong đường cao su vắng, lạnh và tối. Ánh đèn pha của xe Vespa rất sáng, rọi khá xa… nên hắn có lẽ cũng bớt sợ. Tim tôi thì đập thình thịch liên hồi, muốn ngộp thở. Khi hắn dừng xe trước phòng kế toán đội cho tôi xuống, tôi thở phào bắt tay hắn rồi đi nhanh vào chiếc giường của tôi nơi cuối phòng, nằm vật xuống. Ban đầu tôi trách mình nhát, bỏ qua một cơ hội có thể đổi đởi, hay ít ra cũng có một cuộc sống khá hơn, hết đói khát… nơi một tỉnh nào đò ở miền Tây xa xôi…Tôi thiếp đi trong chập chờn những mưu toan, sáng ra tỉnh dậy, tôi nằm im và ý thức là vẫn không có chuyện gì, nỗi sợ qua đi, tôi thở phào nhẹ người vì đã không có chuyện gì!!!
Tôi nhìn anh cười cười, nói:
- Sao không tận dụng cơ hội loại bỏ một con sâu?!
- Sâu sia gì, những tử tù cũng đều là những tên gian ác, đáng tội chết tòa mới kêu án tử. nhưng nó chết vì ai đó, sao đó… chứ không phải là mình. Còn nếu là mình thì không tránh được ray rứt trong tâm trí! Chú không đọc đoạn bài báo nói không ai dám nhận công việc tìm tỉnh mạch đễ chích mũi thuốc độc vào tay kẻ lãnh án  tử à?
Tôi nhìn bâng quơ ra đường rồi nhìn lại anh Trung…Lâu sau mới trả lời anh:
- Có!

             Sài gòn, 17 tháng VIII năm 2917.
             Trạch An-Trần Hữu Hội














READ MORE - ĐỪNG BAO GIỜ LÀ TÔI! - Truyện ngắn Trạch An - Trần Hữu Hội