Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Monday, May 16, 2016

QUÊ TÔI - thơ Văn Kế Thế


Văn Kế Thế


QUÊ TÔI


Quê  hương tôi có con sông Thạch Hãn
Cứ đến mùa chợt đục chợt trong
Có chiếc cầu trần thân trong lửa đạn
Vẫn hiên ngang mãi soi bóng dòng sông

Nhan Biều ơi khi đến mùa xanh ngát
Bông bắp vàng cùng tiếng dế vang trời
Sư Nữ ơi trầm nhang nào ngào ngạt
Ánh đạo quang đã soi sáng một thời
                
Đường Gia Long thẳng về chợ Sãi
Đập Rì Rì đã mấy lần qua
Vui làm sao khi đến mùa cây trái!
Rộn rã cười vang cả xóm Hà


Lâu lắm rồi nhưng lòng còn ái ngại
Chiều hôm kia sao không ghé xóm Hà?!
Lại vào đây ngồi ăn nem chợ Sãi!
Buồn ơi, xa đã… thấy càng xa!


Văn Kế Thế
(Bảo Lộc 13/05/2016)



READ MORE - QUÊ TÔI - thơ Văn Kế Thế

CỦA RỪNG - Thơ Trương Đình Đăng



         Tác giả Trương Đình Đăng



CỦA RỪNG

Tình em dốc ngược nghiêng đồi
Vai tiều anh nặng gánh đôi của rừng
Dặn lòng - tham lắm mắt rưng
Phải chi bữa ấy em đừng ghé trang.

Để rồi hồn phách đi hoang
Để rồi ngày tháng mơ màng hình dong
Để rồi nhớ, để rồi mong
Để rồi có, để rồi không, để rồi...

Em ôm tim lạnh mồ côi
Anh sầu ngọn bấc bên đồi rung cây
Giang sơn còn mảnh vai gầy
Chờ em về tựa qua ngày hanh hao.

                     Trương Đình Đăng
                           17/5/2016

READ MORE - CỦA RỪNG - Thơ Trương Đình Đăng

TÂM SỰ CÙNG ENG! - Thơ Lê Đăng Mành



             Tác giả Lê Đăng Mành



TÂM SỰ CÙNG ENG!                     

 Chia sẻ nỗi đau cùng miền duyên hải
      “Nghệ Tĩnh-Bình Trị Thiên”

Eng mới đi bựa giêng hai chơ mấy
Quê lâm tặc nhưng rừng vẫn còn xeng
Chỉ tội biển nước leng queng chờ chết!
Cá tắt hơi đưa đám nỏ trống kèn

Đợi Eng về dọc bờ dương rũ ngọn
Cát thì thào trèo vít sóng tanh ươn
Bọ mạ miềng tra nguôi càng khó thở
Bởi mùi hôi chất chứa nỗi căm hờn

Mười sáu chữ * lại đang tâm hạ thủ
Để bầy đàn tan tác động thủy cung
Eng tam miềng dòng Yết Kiêu, Dã Tượng
Sao bó kiếm tha giặc sống ung dung

Nhớ thù xưa xóm làng miềng đau rọt
Thỉ Tổ hắn đòi triều cống ngọc trai
Chừ chằm hăm nót đất và khới đảo
Mới lộ mặt hữu nghị lắm chiêu bài

Đợi Eng về út bần thần trăn trở
Biển quê miềng bát ngát khi nắng lên
Và hùng khí Trường Sơn ngời kì vĩ
Mối thù này dân tộc nhớ đừng quên

Eng đi ngái học được diều điều lạ
Út ở dà nuôi hào khí Đông A
Tổ Tiên miềng cùng bú bầu sữa Mạ
Đất nước cần huynh đệ quyết xông pha

                                     Lê Đăng Mành

*16 Chữ vàng (thập lục tự phương châm):

Sơn thủy tương liên
Lý tưởng tương thông
Văn hóa tương đồng
Vận mệnh tương quan

Nghĩa là: Sông núi gắn liền, cùng chung lý tưởng, hoà nhập văn hoá, có chung định mệnh.
Được dịch là Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai. 

READ MORE - TÂM SỰ CÙNG ENG! - Thơ Lê Đăng Mành

KHÚC DU MƠ NGUYỆT KHUYẾT - Thơ Ngưng Thu


          
                      Ngưng Thu


     KHÚC DU MƠ NGUYỆT KHUYẾT 1

  Đêm qua anh muốn thả mình vào giấc chiêm bao
         để được nghe em hát lời phong nguyệt
  đêm chỉ vọng vào anh khúc vô thanh nguyệt khuyết
         sao em cứ rãi những điệp ngôn mềm mượt
            phím du mơ anh trượt phía vô cùng.

  Đêm qua anh thả hồn mình bay chạm vách không
                       biêng biếc đồi xưa
                    thu nắng vàng hong tóc
           kìa róc rách lời khe suối tình mời mọc
         em lại hoá mây mùa thu nhẹ lướt bay đi.

  Đêm qua anh cố thoát ra khỏi vòng uẩn khúc lâm ly
             tìm hỏi nơi nao cất lời phong nguyệt
  chướng những đường mây mang dáng hình Bạch Tuyết
                       anh không là hoàng tử
             nên cứ giả vờ lên cơn sốt giữa đông.

  Đêm qua anh tự vẽ hình em những vệt cong
    ôi những vệt cong nghìn trùng hoang dại
                đồng gió chông chênh
                 vệt màu thì mê chảy
  nên vành môi em hoá vòng nguyệt trở cong vêu.

  Đêm qua anh mơ thấy em ngồi ôm lấy vầng nguyệt hát trong veo
              lời gió, lời thơ say ánh vàng loang đổ
              lá khóc vầng mây trắng màu hoang lộ
                       anh bỗng chợt giật mình
               rong rêu lời huyệt mộ xoay quanh.

                                          Ngưng Thu


          KHÚC DU MƠ NGUYỆT KHUYẾT 2
  (Hay KỂ VỚI THIÊN THU LỜI PHONG NGUYỆT)

           Mai ta về kể với thiên thu*
              chuyện của dòng sông
                       một thời
                         cuồng
                           êm
                     sông chảy.

          Mai ta về kể với thiên thu
               chuyện của con tim
                bốn mùa rực cháy
                  lửa từ đam mê.

          Mai ta còn kể với thiên thu
    nơi ngọn núi cong cong dáng hình người thiếu nữ**
         nơi sợi nắng sợi mưa quyện nhành mây thở
                       men lời phong nguyệt
                                 hoài say

           Mai ta về kể với ngàn sau
    câu chuyện mùa thu ngưng chờ ươm nụ
                   nhẹ tiếng đêm khua
                  mà mượt cánh quỳnh
               lời phong nguyệt bay bay. 
                                 Ngưng Thu

     * Ý thơ TĐX
     **Núi Nhọn thuộc Hàm Tân Bình Thuận 

READ MORE - KHÚC DU MƠ NGUYỆT KHUYẾT - Thơ Ngưng Thu

TRĂNG MUỘN - Cảm nhận của Nguyễn Đình Nguộc về bài thơ “Hẹn cùng trăng”





                TRĂNG MUỘN
                                 Cảm nhận bài thơ “Hẹn cùng trăng”

Hẹn cùng trăng” là một bài thơ tình viết theo thể tự do trong tập thơ “Con mắt lá” của nhà thơ Trần Thanh Xuân. Những câu thơ đầy tâm trạng đọc lên ta cảm thấy nỗi buồn man mát ở phần đầu nhưng cuối bài, cung bậc tình cảm bỗng thay đổi, niền vui đến bất ngờ. Bài thơ đa chiều, nhiều hình ảnh đẹp, có tính triết lý sâu sa, kén người đọc nên có thể một số bạn thơ cảm thấy không dễ hiểu.
Trong cuộc sống có những lúc ta cảm thấy nỗi buồn cô đơn chưa biết tỏ cùng ai, mong gặp được tri kỷ:
“Trốn nỗi buồn cô đơn/ Hẹn trăng đợi bên hồ/ Hẹn mây, hẹn gió đến làm thơ”
Rất may, những người có tâm hồn thi sĩ còn có điểm tựa là nàng thơ để trải lòng mình vơi đi nỗi buồn đơn lẻ. Trong cảnh đẹp bên hồ: liễu rủ, trăng thanh, gió mát, mây nước hữu tình tạo cảm hứng để thi nhân có những vần thơ ưng ý. Người ta thường gọi trăng là chị Hằng, là Hằng Nga... Tôi có cảm giác trăng sẽ là nhân vật chính của cuộc hẹn này vì vắng trăng sao ngắm được gió, mây? Và, phải chăng người thơ đang hẹn hò một bạn tâm tình để lòng bớt “cô đơn”? Nhưng:
“Gió, mây đúng hẹn, trăng không đến/ Chú Cuội ghen tuông /Phá rối cuộc đợi chờ!”
Như vậy, gió mây chỉ là ngoại cảnh làm nền cho cuộc hẹn hò; trăng mới là nhân vật chính! Vì vậy, khi trăng không đến người hẹn hò chẳng thể nào vui. Và bắt đầu suy diễn, trách cứ về sự “ghen tuông” của chú Cuội đã “phárối cuộc đợi chờ!”. Tác giả đưa nhân vật chú Cuội cũng có thể là chú Cuội chăn trâu trên mặt trăng như truyền thuyết dân gian... Nhưng người Việt ta thường có câu: nói dối như cuội. Kẻ ghen tuông, phá rối cuộc hẹn này tôi ngờ rằng lẽ nào lại là chú Cuội hiền lành đến nỗi: để trâu ăn lúa gọi cha ồi ồi như bài hát đồng dao... “Trăng không đến” bên hồ như đã hẹn vì một lý do nào đó cũng có nghĩa là cuộc  đợi chờ không còn ý nghĩa. Vắng trăng làm sao ngắm được mây, gió nô đùa, nhìn thấy được mặt hồ xanh muôn thuở? Những tưởng có trăng sẽ giải tỏa được nỗi buồn cô đơn. Nhưng vắng trăng sao có thể làm thơ... thi nhân thất vọng, nỗi buồn nhân đôi. Người “hẹn cùng trăng” khẳng định thủ phạm chính là chú Cuội vì ghen tuông đã “phá rối cuộc đợi chờ!” khi dùng dấu chấm than ở cuối khổ thơ. Mạch thơ lại tiếp tục:
“Thơ vắng trăng/ Thơ chỉ thơ một nửa,/ Gió lùa mây/ Tứ thơ đâu còn nữa!”
Thật vậy, trăng là hình tượng chính tạo nên cảm hứng thơ. “Vắng trăng”, chỉ còn lại nhà thơ thì sao có thơ “hẹn cùng trăng” được nữa. Bởi vậy “Thơ vắng trăng/ Thơ chỉ thơ một nửa”. Câu thơ hay, đầy triết lý làm lay động lòng người. Trong tình yêu cũng vậy... mỗi người là một nửa của nhau, là miếng ghép của tạo hóa tạo nên một chỉnh thể. Khi vắng một nửa của mình cảm thấy trống trải, hẫng hụt... “nỗi buồn cô đơn” lại nhân thêm. Đã vậy, nếu “Gió lùa mây” đi mất thì không còn gì để thành thơ nữa. Nhà thơ thất vọng vì cuộc “hẹn cùng trăng” đã không thành. Tây Hồ đêm không trăng... nỗi buồn cô đơn của người thơ càng tăng lên gấp bội tưởng như không thể chịu đựng hơn được nữa. Nỗi lòng này ai tỏ cùng ai?  “Cuộc đợi chờ” tưởng như tan biến... thì:
“Có ai ngờ rẽ liễu trăng lên/Gương trăng non vằng vặc vẻ thần tiên!”
Câu thơ như tiếng reo mừng nhưng được dấu kín trong lòng. Dẫu muộn... nhưng trăng đã đến nơi hò hẹn. Qua  nhành liễu rủ ven hồ người thơ đã thấy “gương trăng non”- gương mặt thân quen xuất hiện, niềm vui bất ngờ đến ngất ngây... ngỡ như ánh sáng của trăng rằm “vằng vặc”, đẹp như “thần tiên”. Khi đợi chờ đến mỏi mắt ngóng trông“có ai ngờ” trăng non đã xuất hiện. Cuộc đợi chờ tưởng như vô vọng đã thành hiện thực đến ngỡ ngàng... không tin ở mắt mình là thực hay là mơ nữa. Phải chăng người thơ vì“trốn nỗi buồn” mong gặp trăng để trải lòng nên đến sớm hơn thời gian hò hẹn? Bởi vậy, khi trăng đến người thơ đầy xúc động, đôi mắt hình như đã nhòe lệ:
“Ánh điện nhòe, hồ xanh run rẩy.../ Mắt đưa tình liễu mềm như muốn gẫy,/ Tóc trăng vờn.../  mơn gió ngẩn ngơ...”
Nhìn “ánh điện nhòe” đi, “hồ xanh run rẩy...” thể hiện tâm trạng xúc động dâng trào của người thơ khi gương mặt“trăng non” xuất hiện. “Hồ xanh run rẩy...” hay trái tim người thơ run rẩy? Mỗi khi diễn tả nỗi buồn, người ta thường dùng hình ảnh: liễu rủ bên hồ ngẩn ngơ. Mềm như nhành liễu... ấy vậy mà khi “mắt đưa tình liễu mềm như muốn gẫy” ta cảm thấy tình yêu nồng nàn, mãnh liệt đến dường nào? Người ta thường nói đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn... khi vui, khi buồn đôi mắt đều nói lên tất cả! Nhưng ánh “mắt đưa tình” thì chỉ có ở người đang yêu. “Như muốn gẫy” nghĩa là chưa gẫy. Mắt đưa tình đến liễu mềm cũng muốn gẫy thì thật là đa tình, đa cảm! Đọc những câu thơ trên, nhắm mắt lại tập trung suy nghĩ và liên tưởng: có ai nhìn thấy mắt của trăng đâu thì sao có thể “mắt đưa tình” được? Cả suối tóc của trăng vờn mơn man... đến gió cũng phải “ngẩn ngơ”. Tôi ngờ rằng “trăng non” phải là một cô gái đẹp, có duyên thầm... Có thế mới làm cho người thơ bồn chồn, không thể bình tĩnh được khi phải chờ đợi đến vậy. Trăng đến muộn phải chăng để thử thách tình cảm và sự kiên nhẫn của người thơ? Nếu đúng vậy thì tôi thương chú Cuội bị trách oan. Không biết rằng Cuội ghen hay ai đó ghen mà để bao trách giận của người thơ trút lên chú Cuội? Người ta nói khi yêu đến một ngưỡng nào đó thì bắt đầu ghen, chẳng biết có đúng không. Trước  vẻ đẹp như “thần tiên”của “trăng non” không ghen mới là chuyện lạ? Bài thơ tình kết có hậu. Tất cả cũng bởi vì trăng đến muộn.
Câu kết của bài thơ để chúng ta phải suy ngẫm: “Tiếng chim lạc đàn buông chấm lửng... vào thơ”. Chim lạc đàn là con chim cô đơn! Tiếng kêu gọi bầy lạc lõng giữa đêm thanh từng tiếng, từng tiếng một như dấu chấm lửng... thật não nề. Phải chăng con chim cũng muốn có bạn tình, muốn có đôi như bao con chim khác theo quy luật của tạo hóa? Và, thơ với thiên chức phản ánh tâm tư, tình cảm, khát vọng của con người... không thể thờ ơ!
Bài thơ tình với nghệ thuật ẩn dụ đầy tâm trạng và lãng mạn; những hình ảnh đẹp, lựa chọn có chủ đích; kết cấu có thắt, có mở tạo tình huống kịch tính trong thơ; tác giả lại viết vào một đêm không trăng bên Tây Hồ lộng gió tạo cho bạn thơ từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác... và hiểu rằng đó chỉ là... TRĂNG MUỘN.
                                                 
                                Hà nội, cuối thu 2015
                              Ts.Nguyễn Đình Nguộc

HẸN CÙNG TRĂNG

Trốn nỗi buồn cô đơn
Hẹn trăng đợi bên hồ
Hẹn mây, hẹn gió đến làm thơ,
Gió, mây đúng hẹn, trăng không đến
Chú Cuội ghen tuông
Phá rối cuộc đợi chờ!

Thơ vắng trăng
Thơ chỉ thơ một nửa,
Gió lùa mây
Tứ thơ đâu còn nữa!
Có ai ngờ rẽ liễu trăng lên
Gương trăng non vằng vặc vẻ thần tiên!
Ánh điện nhòe, hồ xanh run rẩy...
Mắt đưa tình liễu mềm như muốn gẫy,
Tóc trăng vờn...
                         mơn gió ngẩn ngơ...

Tiếng chim lạc đàn buông chấm lửng... vào thơ

                                    Trần Thanh Xuân
                 Tây Hồ, đêm không trăng 6/7/2013

READ MORE - TRĂNG MUỘN - Cảm nhận của Nguyễn Đình Nguộc về bài thơ “Hẹn cùng trăng”