Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Monday, October 19, 2020

MẸ GIÀ TRIÊNG GIÓNG CÒNG LƯNG... – Thơ Lê Phước Sinh

 


    


MẸ GIÀ

TRIÊNG GIÓNG CÒNG LƯNG...

 

Nghe tin Bão đến

kéo từ Biển Đông

ù ù Gió cuộn

xoay rít ngàn vòng…

 

rơi ngàn cái khổ

xé vạn tâm can

Mẹ còng lưng gánh

Tơi Áo tan hoang

 

Bão cuồng bạo hú

Giông Tố mịt mù

Tượng Đài Lịch Sử

Đá rướm Mồ hôi

 

MẸ các con ơi...

 

LÊ PHƯỚC SINH


READ MORE - MẸ GIÀ TRIÊNG GIÓNG CÒNG LƯNG... – Thơ Lê Phước Sinh

TẢN MẠN ĐÔI ĐIỀU VỀ TRÀ (Kỳ 8) – Nguyên Lạc

 


ẤM NGHI HƯNG THEO THỜI GIAN

Theo sách Dương Tiện Mính Hồ Lục (Sách về các ấm trà vùng Dương Tiện) của Chu Cao Khởi thì đời Chính Đức, Gia Tĩnh nhà Minh có Cung Xuân tài nghệ tuyệt vời, là người nổi danh đầu tiên về làm ấm tử sa. Cung Xuân vốn là gia đồng của Ngô Sĩ đất Nghi Hưng thường theo hầu Ngô Sĩ đến học tại chùa Kim Sa. Trong chùa có một vị hòa thượng có tài làm đồ sứ nên Cung Xuân theo nhà sư học nghề nặn ra những tác phẩm trông chẳng khác gì đồ kim loại xưa. Khi Cung Xuân nổi danh, ông thường cùng Bộc Trọng Khiêm (đất Gia Định) khắc trúc, Lục Tử Đồng (đất Tô Châu) chạm ngọc, và Khương Thiên Lý khảm xà cừ. Tất cả đều là những người nổi tiếng đời Minh. Cung Xuân nặn ấm không lâu — truyện kể rằng ông bị quan sở tại vì yêu chuộng tài nghệ ông nên bức bách khiến ông phải bỏ xứ mà đi — nên tác phẩm của ông hiện nay lưu truyền rất ít. Sách vở chỉ còn ghi một chiếc ấm của ông hình 6 múi hiện tàng trữ tại Viện Trà Cụ Hongkong nặn năm Chính Đức thứ 8 (1513). Thế nhưng còn một cái ấm khác cũng của Cung Xuân để tại Singapore thì ít thấy sách vở nào đề cập. Theo bài “Nghi Hưng và Nghiên Mực” (Yi Hsing and Inkstones) trong tạp chí Arts of Asia, số July/August 1971 thì ông C.M. Wong, Bí Thư của Phòng Thương Mại Singapore và là Chủ Tịch Hiệp Hội Hoa Nhân tại đây có trong bộ sưu tập của ông một ấm Cung Xuân hình vỏ cây. Ấm này đề năm 1506, có triện của người nghệ sư. Phần dưới quai cầm lại còn một vết dấu tay điểm vào mà người ta bảo rằng đó là vết ngón tay thứ sáu của Cung Xuân (Bàn tay phải của ông có sáu ngón).

Sau thời Cung Xuân, nghệ thuật làm ấm đất nung vùng Nghi Hưng thịnh đạt, đến đời Vạn Lịch càng có nhiều danh thủ. Lý Ngư viết là: “Trà không gì bằng dùng ấm bằng tử sa, mà vùng Dương Tiện là hạng nhất”. Từ đời Minh trở đi, việc dùng ấm tử sa để uống trà trở nên thông dụng. Người ta để ý đến phẩm chất trà đã đành mà còn kén chọn cả cách pha trà, nước nào pha trà ngon, uống lúc nào mới hợp.

Trước kia, ấm trà bằng sứ là quí nhất nhưng khi ấm tử sa ra đời thì không mấy ai còn chuộng ấm sứ nữa. Cổ nhân tổng kết ấm tử sa có bảy ưu điểm:

Chế nước sôi vào không làm trà mất hương vị, sắc hương còn nguyên

Bình trà dùng lâu, chế nước không cũng ra mùi trà

Trà vị không bị biến chất

Chịu nóng cao, mùa đông tháng giá đổ nước sôi vào không bị nứt

Ít truyền nhiệt, cầm vào không phỏng tay

Dùng càng lâu càng lên nước, bóng lộn

Có nhiều màu khác nhau, dễ lựa chọn

Vì ấm tử sa là một tác phẩm nghệ thuật nên trông ấm người ta có thể đánh giá được người nặn vào bậc nào. Thành ra, trong những nghệ nhân nghề sành sứ, thì ngành làm ấm để tên lại nhiều nhất. Sau đời Cung Xuân người ta thấy có Thời Bằng, Đổng Hàn, Triệu Lương, Nguyên Sướng và Lý Mậu Lâm là những thợ nổi danh.

Đời Vạn Lịch, Thời Đại Bân, con của Thời Bằng là người nổi tiếng hơn cả. Văn Chấn Hanh viết trong “Trường Vật Chí” là “ấm trà tử sa là loại tốt nhất, nắp vừa vặn không làm mất hương, lại không bốc hơi. Ấm do Cung Xuân chế tạo quí nhất, đều nhỏ nhắn, hình dáng lạ lùng. Thời Đại Bân chế thì có cái to, cái nhỏ…”. Cùng nổi danh với Đại Bân có Lý (Đại) Trọng Phương, Từ (Đại) Hữu Tuyền, người ta gọi là Tam Đại.

Từ Hữu Tuyền tự Sĩ Hoành, là học trò của Thời Đại Bân, có tài bắt chước các loại đồng khí xưa làm ấm hình tàu lá chuối, đài sen, củ ấu, quả trứng…

Nổi tiếng thời Vạn Lịch còn có Âu Chính Xuân, Thiệu Văn Kim, Thiệu Văn Ngân, Tưởng Bá Cung, Trần Dụng Khanh, Trần Tín Khanh, Mân Lỗ Sinh, Trần Quang Phủ, Thiệu Cái, Thiệu Nhị Tôn, Chu Hậu Khê…

Thời Vạn Lịch, ngoài việc nặn ấm, các nghệ nhân còn dùng đất tử sa điêu khắc và các chế tạo vật phẩm khác, rất thịnh hành. Người nổi tiếng nhất là Trần Trọng Mỹ ở Vụ Nguyên, An Huy. Họ Trần trước vốn ở Cảnh Đức Trần làm đồ sứ. Sau đến Nghi Hưng kết hợp nghệ thuật đồ gốm với nặn ấm, tạo ra các loại đỉnh hương, bình hoa, cục chặn giấy .. rất xinh xắn. Người nổi danh đồng với Trần Trọng Mỹ thì có Trẩm Quân Dụng, tự Sĩ Lương.

Sau đời Vạn Lịch có Trần Tuấn Khanh, Chu Quí Sơn, Trần Hòa Chi, Trần Đình Sinh, Thừa Vân Tòng, Trẩm Quân Thịnh, Trần Chấn, Từ Lệnh Âm, Hạng Bất Tổn, Trẩm Tử Triệt, Trần Tử Huề, Từ Thứ Kinh, Huệ Mạnh Thần, Tiết Hiên, Trịnh Tử Hầu…

Trên đây là những nghệ nhân nổi tiếng khéo đời Minh. Về sau, người ta mô phỏng rất nhiều những kiểu họ đã chế tạo nên những ấm nào thực sự đời Minh, cái nào đời sau khó ai biết được. Đồ tử sa lại không đề niên đại như đồ gốm nên càng khó phân biệt chân giả.

Sang đến đời Thanh, nghệ thuật làm ấm còn thịnh đạt hơn nữa. Triều đình nhà Thanh chuộng đồ tử sa nên càng coi trọng. Văn khố nhà Thanh còn ghi lượng hàng mỗi năm tiến cống vào cung. Phẩm chất cũng thêm tinh vi, xảo diệu. Ngoài ấm đất, ngưòi ta còn nặn bồn trồng cây cảnh, bình hoa, và dụng cụ dùng trong nhà. Màu sắc pha chế cũng phong phú hơn.

Nghệ nhân nổi tiếng đời Thanh rất nhiều. Người xuất sắc nhất là Trần Minh Viễn, hiệu Hạc Phong, lại có tên là Hồ Ân, chế ra hàng chục thứ ấm trà, đồ dùng khác nhau, không cái nào giống cái nào, quả là bậc thầy trong nghề. Những tác phẩm mà Trần Minh Viễn còn để lại hết sức tinh xảo, lại đầy sáng tạo. Cái thì hình một gốc mai già, cái thì hình bó củi, trông như một nghệ phẩm điêu khắc tả chân hơn là một trà cụ. Ông còn nặn những trái cây tầm thường như hạt dẻ, củ đậu phộng … trông hết sức tinh xảo, thoạt trông không ai bảo là một vật bằng sành.

Sách Trùng San Kinh Khê Huyện Chí, viết năm thứ hai đời Gia Khánh, (Thanh) dùng bốn chữ “vạn gia yên hỏa” (nhà nhà đều khói lửa) để chỉ khung cảnh sinh hoạt bấy giờ. Đời Ung Chính, Càn Long thì có Trần Hán Văn, Dương Quí Sơ, Trương Hoài Nhân. Chế tạo đồ dùng trong cung vua thì có Vương Nam Lâm, Dương Kế Nguyên, Dương Hữu Lan, Thiệu Cơ Tổ, Thiệu Đức Hinh, Thiệu Ngọc Đình nhưng thiên về ấm có trang trí, màu sắc. Những chuyên gia cho rằng kết hợp hai kỹ thuật của Cảnh Đức Trấn (nơi chế tạo đồ sứ tráng men) với Nghi Hưng đã làm giảm đi phong vị của ấm tử sa, bản chất vốn giản phác, gần thiên nhiên. Cầu kỳ hóa một nghệ thuật vốn dĩ đạm bạc đã khiến cho nghệ thuật nặn ấm đổi hẳn sắc thái, mất đi tính nguyên ủy của nó.

Sang đời Gia Khánh, những người tên tuổi có Huệ Dật Công, Phạm Chương Ân, Phan Đại Hòa, Cát Tử Hậu, Ngô Nguyệt Đình, Hoa Phượng Tường, Trinh Tường, Quân Đức, Ngô A Côn, Hứa Long Văn…

Thời Đạo Quang có Dương Bành Niên và em gái là Dương Phượng Niên cùng với Trần Hồng Thọ, Thiệu Đại Hanh là những danh gia. Trần Hồng Thọ hiệu là Mạn Sinh, đời Gia Khánh làm huyện tể đất Lật Dương. Ông là người giỏi viết chữ, vẽ tranh, khắc triện lại thích sưu tầm ấm tử sa. Nhiều ấm do Dương Bành Niên và nhà họ Dương chế tạo ra, đợi cho hơi khô, Trần Hồng Thọ dùng dao tre khắc, vẽ, viết chữ, đề thơ lên rồi mới đem nung. Việc kết hợp hai tài danh, một nặn ấm, một thư họa là sáng tác mới của thời đó. Ấm thường có đề “A Mạn Đà Thất” (là tên thư trai của họ Trần) hay dưới đáy có khắc “Bành Niên”. Đời sau gọi là ấm Mạn Sinh (Mạn Sinh hồ).

Theo chân Trần Hồng Thọ, nhiều danh sĩ khác như Kiều Trọng Hỉ, Ngô Đại Trừng cũng đứng ra chỉ đạo việc nặn ấm. Từ đó, một kỹ xảo vốn chỉ được coi như nghề mọn nay đã lan sang cả giới nho gia. Tuy không được phổ biến như thư họa nhưng cũng không còn là một tiện nghệ như trước nữa.

Một danh sĩ vốn giỏi về vẽ trúc là Cù Tử Trị lại đem việc khắc trúc, họa trúc vào trang trí trên ấm. Họ Cù không những mang thư pháp mà còn khắc hẳn những cành trúc, cành mai nghĩa là coi chiếc ấm như một tờ giấy hay vuông vải để thi thố tài hàn mặc.

Còn Thiệu Đại Hanh thì là một nghệ nhân nổi tiếng không kém gì Dương Bành Niên. Trong khi Dương nổi danh về tinh xảo thì Thiệu có tiếng về giản phác. Ông không cầu kỳ nhưng cũng có nhiều sáng kiến độc đáo. Chính kiểu nắp ấm đầu rồng, khi rót thì lè lưỡi ra là do ông khởi thủy, tới nay vẫn còn nhiều người bắt chước và khá phổ biến trên thị trường.

Cuối đời Thanh, Chu Kiên lại có sáng kiến dùng thiếc và ngọc để bịt hay khảm vào ấm tử sa. Nhiều thân ấm được bịt thiếc và viết chữ rồi dùng ngọc trạm thành quai, thành vòi ráp vào. Thế kỷ thứ 19 nhiều người còn bịt đồng hay thau nhưng nói chung những kiểu này không được chuộng lắm.

Vào thời điểm này, việc thương mại giữa Trung Hoa và nước ngoài đã phát triển. Nhiều cường quốc đã chiếm những lãnh địa ở duyên hải hay cưỡng ép nhà Thanh nhường làm tô giới và Thanh đình đã phải mở cửa cho họ vào buôn bán. Trà Tàu trở thành một nông phẩm xuất cảng quan trọng và ấm Tàu cũng được sản xuất qui mô để bán ra ngoài. Nhiều công ty thành lập tại Thượng Hải, Nghi Hưng, Thiên Tân, Hàng Châu đại lý bán ấm Nghi Hưng. Những kiểu ấm thời đó cũng vẫn theo mô dạng cũ. Một công ty ở Thượng Hải là Thiết Họa Hiên đến nay vẫn còn. Thiết Họa Hiên nổi tiếng vì chữ viết trên ấm rất đẹp. Những nghệ nhân nổi tiếng của họ gồm có Tưởng Yến Hanh, Trần Quang Minh, Phạm Đại Sinh, Vương Diễn Xuân, Trình Thọ Trân. Những ấm xuất cảng thường có cả con dấu của nghệ nhân lẫn con dấu của hãng. Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 có hai hãng khác là Chân Ký và Ngô Đức Thịnh cũng phát đạt.

Thời Dân Quốc ấm Nghi Hưng được xuất cảng rất nhiều sang Nhật Bản, Đông Nam Á, Âu Châu và Mỹ Châu. Thời đó cũng có nhiều thợ khéo nhưng kiểu thường giản dị, cân đối chứ không cầu kỳ như thời trước. Có lẽ vì nhu cầu thương mại và thị hiếu đã thay đổi. Đến thời loạn lạc thập niên 1930, 1940 việc sản xuất ấm phải đình trệ. Sau khi Trung Cộng nắm quyền, việc sản xuất được qui tụ thành công xã nhưng không phát triển được. Thời Cách Mạng Văn Hóa lại một lần nữa kỹ nghệ này bị vùi dập. Trong chế độ Cộng Sản, uống trà bị coi là một tàn tích tư sản, bóc lột, phi sản xuất nên bị bài xích. Việc làm ấm vì thế cũng bị triệt hạ. Sau khi Đặng Tiểu Bình thi hành chính sách cải tổ, Trung Cộng phục hồi ngành nặn ấm tử sa. Năm 1979, xí nghiệp Nghi Hưng Tử Sa đã sử dụng đến 600 nhân công. Hiện nay, một số thợ chuyên môn trẻ và tương đối có trình độ đã khôi phục lại được công nghiệp này, nhất là càng ngày càng có nhiều người ưa chuộng và sưu tập.

(Mục Ấm Nghi Hưng Theo Thời Gian tác giả trích đoạn từ bài viết: Trà Tàu Và Ấm Nghi Hưng – của Nguyễn Duy Chính)

CÁCH CHỌN, SỬ DỤNG VÀ BẢO DƯỠNG ẤM TỬ SA

CÁCH CHỌN ẤM TỬ SA

Một cái ấm quý phải hội đủ mấy điều kiện:

– Miệng, vòi và quai ấm phải ngang nhau, lúc đặt sấp xuống bàn không chênh vênh; đổ nước sôi vào phải nóng ngay mà quai ấm cầm vẫn không bỏng; nắp ấm phải khít khao với miệng ấm, nắp ấm có một lỗ nhỏ mà nước không được trào ra ở lỗ ấy.

3 ĐIỂM TRÊN MỘT ĐƯỜNG THẲNG

 

       
(Hình ấm trà: Miệng, vòi và quai ấm phải ngang nhau)

– Lúc cầm lên pha vào chén, nước từ ấm ra phải chảy thành một đường như đường chỉ, không được vung vãi. Lúc ngừng tay, nước không trào ra ngoài giọt nào.

– Đặt ấm vào tai, nghe vi vu như tiếng sóng. Đất phải thật nhẹ và mịn nhuyễn. Đất màu tím là hạng nhất gọi là Tử Sa, Thiết Sa, Chu Sa hạng nhì, sau đó còn hoàng sa, bạch sa, lam sa, đều có thể dùng làm ấm trà nhưng ở các hạng sau.

– Da ấm cần phải mỏng, láng, gõ vào kêu tiếng thanh, ấm dùng lâu, bao giờ cũng có cốt trà đóng bên trong, để cho giữ hương vị trà. Không ai mang ấm trà ra mà kỳ cọ bao giờ, đó là điểm tối kỵ trong nghệ thuật uống trà.

Tiêu chuẩn kinh điển chọn mua ấm Tử sa

Thả ấm vào chậu nước nổi bồng bềnh, không nghiêng lệch; nhận chìm xuống rồi buông tay, ấm sẽ nổi trồi lên mặt nước mà không bung nắp hay bị lật chìm; hoặc bịt ngón tay vào lỗ thông hơi trên núm nắp ấm thì rót nước không chảy; dùng nắp ấm gõ nhẹ vào quai phát ra âm thanh như tiếng sắt, tiếng đồng…

1. Nhìn bằng mắt: Hình dáng thanh thoát, ưa nhìn.Các bộ phận như :thân ấm, nắp, miệng, vòi, quai, đáy phải cân đối, liền lạc. Màu sắc đồng đều trong ngoài. Dấu triện của nghệ nhân hay nhà sản xuất nét chữ sắc sảo, đặt cân đối ở trung tâm đáy ấm, theo trục thẳng từ quai sang vòi ấm. Những chiếc ấm đắt tiền thường có thêm dấu triện phụ dưới nắp và quai cầm thật rõ nét. Vòi ấm có thể dài ngắn khác nhau, nhưng quan trọng là khi rót, nước chảy thông, đều và thẳng dòng, không rơi vãi hay đọng giọt nhểu ra ngoài.

2. Nghe bằng tai: Đặt ấm lên lòng bàn tay, tay kia cầm nắp ấm khẽ gõ vào quai, tiếng kêu đanh; chắc như kim loại chạm vào nhau.

3. Cảm nhận bằng tay: Trơn láng, mịn màng, không tì vết. Nắp và miệng ấm khít khao, vì ấm Tử sa được nung trong lò liên tục 23 tiếng đồng hồ ở nhiệt độ từ 1.190 – 1.270 độ C (trung bình 1.200 độ C), đòi hỏi tay nghề nghệ nhân phải cao, chất đất phải thật tốt và mịn mới không bị co giãn khi nung. Do tính bào mòn trong quá trình sử dụng, một chiếc ấm dùng càng lâu càng lên nước, không đổi màu, đó mới chính là đặc trưng ưu việt của ấm Tử sa, chứ màu sắc đất không liên quan gì đến chất lượng và công dụng.

4. Nắp ấm phải kín, thử bằng cách đổ ¾ nước vào ấm rồi đậy nắp lại (tay ghì giữ nắp ấm cho chặt) và nghiêng vòi nếu nước không chảy ra thì nắp ấm kín.

– Vỏ ấm phải cứng, cầm ấm lên dùng ngón tay gõ nhẹ vào thành ấm nghe boong boong càng trong càng quý.Vỏ càng cứng càng ít thẩm thấu và nắp càng kín càng ít thoát hơi nước, có như vậy trà mới ấm lâu và ít bay thoát hương vị.

Trong truyện “Những cái ấm đất” Nguyễn Tuân có đề ra tiêu chuẩn lựa ấm:

“Nếu không tin ông cứ úp ấm xuống mặt miếng gỗ kia. Cho ấm ngửa trôn lên. Cứ xem miệng vòi với quai và gờ miệng ấm đều cắn sát mặt bằng miếng gỗ thì biết. Nếu muốn thử kỹ nữa, quý khách thả nó vào chậu nước, thấy nó nổi đều, cân nhau không triềng, thế là đích ấm tàu.” (Những chiếc ấm đất – Nguyễn Tuân).

SỬ DỤNG VÀ BẢO DƯỠNG ẤM TỬ SA

Những chiếc ấm trải qua thời gian dài sử dụng và bảo dưỡng sẽ trở nên sáng ngời, tròn trịa, dày nặng, rắn chắc và tinh khiết. Nói chung, giá trị của nó chỉ có tăng chứ không giảm.

Có người mua ấm mới về không đem ra dùng ngay, họ dùng giấy nhám loại nhuyễn thấm nước chà trong ngoài cho hết bụi đất lò nung gốm bám dính vào, rồi rửa sạch. Sau đó cho ấm vào một nồi nước đun sôi suốt mấy tiếng đồng hồ. Có người đun sôi ấm như thế trong một nồi bã trà lớn nhiều giờ hay nhiều ngày đêm, để ấm có thể hấp thu chất trà vào các lỗ thông khí (khí khổng), loại bỏ mùi của đất, hương vị trà không bị át mất. Ngày nay, trên thị trường đã có bán loại máy chuyên dùng bảo dưỡng ấm, bằng cách phun nước trà liên tục suốt một ngày đêm để tôi những chiếc ấm mới.

Những tay cự phách trong làng trà thường không thích ấm mới, vì còn hôi mùi đất; ấm càng cũ càng tốt vì trong lòng ấm có gợn lớp bợn trà, mới cho ra nước trà ngon. Vì điều này, các người sành trà ít dùng chất tẩy rữa bên trong ấm trà, chỉ tráng qua nước nóng sau khi dùng, rồi úp để ráo.

ẤM TRÀ THỜI TRỊNH NGUYỄN

Sẵn bàn về các ấm trà, tôi xin ghi ra đây trích đoạn bài viết “Bộ ấm cũ” của Phí Ngọc Hùng để các bạn hiểu thêm sự trân trọng ấm trà cuả người xưa:

“Theo điển tích thì tất cả những bộ ấm trà của các cụ từ thời Trịnh Nguyễn được gọi chung là đồ “ký kiểu”, hiểu theo nghĩa là vẽ kiểu trước và ký là dấu ấn hay một bài thơ ngắn. Khởi đầu từ chúa Trịnh Sâm, người được coi là trà sư của nghệ thuật uống trà, tự nhận mình là “trà nô”, với chén bạch định hay bạch trản ký hiệu “Nội Phủ”. Sau đó, cụ Nguyễn Du mang về cho vua Gia Long bộ ấm “Giáp Tý 1804”, riêng cụ có bộ Mai Hạc với hai câu thơ “Nghêu ngao vui thú yên hà, mai là bạn cũ hạc là người quen”. Tiếp đến vua Minh Mạng có bộ “Chữ Nhất”, vua Thiệu Trị với bộ “Mãn Hoa Tùng Đình” và vua Tự Đức cùng bộ “Ngọan Hảo”. Các bộ ấm đặt làm cho các quan, với “chữ đề” gọi là “chấm”. Quan võ thích chấm “Tam Cố thảo lư”, hoặc “Tây Sương ký”. Quan văn ưa “Trúc lâm thất hiền” hay “Đạp tuyết tầm mai” này nọ…

Từ các bộ ấm của các quan, sau rơi rớt lại trong dân gian qua cụ Tú, cụ Cử, cụ Nghè…Các cụ xem bộ ấm trà như vật gia bảo để đi vào giai thoại: Như cụ cử Lưu làng Nguyệt Ánh, tỉnh Hà Đông, cụ có bộ ấm trà “Bạch định” để không thì trắng cả trong lẫn ngoài, nhưng nếu rót trà vào ấm thì hiện lên một bức họa “Thanh sơn bạch vân” thêm bốn câu thơ nhỏ li ty, mỗi câu ở mỗi chén. Năm 1922, cụ cử Nguyễn Kỳ tri huyện Thanh Trì, muốn xem bộ ấm chén đó phải nhờ cụ đồ Thục tiến dẫn và được hương hào, lý trưởng làng Nguyệt Ánh xuất tuần phu, trống rong cờ mở, hương án bái vọng như thiên tử tuần du. Tháng sau, cụ cử Lưu lại khăn gói qủa mướp như trẩy hội qua làng Hoàng Mai để đáp lễ và cũng để thưởng ngoạn bộ chén trà văn kỳ thanh, bất tướng kỳ hình có cái tên “Kim tiên kỳ ngoạn” còn được gọi là bộ “Long linh” từ đời Minh Vĩnh Lạc, khi soi dưới ánh sáng mặt trời thấy “lưỡng long tranh châu”, nét như sợi chỉ và phủ ngoài một lớp men nên nhìn sơ qua chỉ thấy mầu trắng không. Khi nào rót trà, nhìn vào lòng chén, sẽ thấy hai con rồng cử động và ngo ngoe như thật” - (Bộ ấm cũ – Phí Ngoc Hùng)

CÁC LOẠI CHÉN UỐNG TRÀ

1. Chén tống

Chén tống xưa gọi là tướng, sau đổi gọi là tống. Chén tống rất quan trọng, như một vị tướng chỉ huy ba đội quân, nó vừa để tống, vừa để nghênh đón những giọt trà mà người xưa gọi là “Dịch thể ngạnh ngọc bào”.

Chén tống có hai loại: Hoặc là trên dưới bằng nhau, hoặc là miệng hơi loe ra cho khỏi vung vãi đổ ra ngoài phí trà. Chén tống dùng làm giảm bớt độ nóng của nước trà, kẻo uống phỏng môi, bỏng họng. Nó là loại chén chuyên, dùng để chuyển trà từ ấm trà qua những chén quân, rồi uống; vì nước từ ấm trà ra bao giờ cũng phải dùng thứ nước thật sôi, rắt nóng. Nước chưa đủ độ sôi thì trà sẽ không chìm và không toát ra hết tất cả hương vị của từng lá trà, trong ấm trà.

2. Chén quân

Tại sao phải là ba chén quân? Vì người xưa, người Trung Hoa hay có câu “Tam quân đương nhất chiến”, phải ba đạo quân mới giữ vững được một trận tuyến, và người xưa lại còn nói thêm một câu khác nữa là: “Quân chi tam đội, thành nhất chiến chi công”.

Ngay những lúc độc ẩm cũng phải cần tam quân để cho trà vừa nguội, uống hết chén nầy lại uống chén nữa, sau đó mới pha lần khác. Có người để sẵn trong chén tống, pha riêng khi độc ẩm, nhưng nghi thức vẫn đòi hỏi tam quân. Con số ba là số dương – “dương số”, con số vừa vặn, vì nếu 5 thì lại quá nhiều – Theo Dịch học, số lẻ là số dương, số chẳng là số âm; người xưa ít thích số âm, chỉ thích số dương.

Theo ông Vương Hồng Sển thì miền Bắc dùng một chén tống và bốn chén quân; miền Trung trở vào Nam dùng một chén tống với ba chén quân nên mới có thành ngữ “nhất tống tam quân”.

Bộ chén trà lại chia làm bốn loại để dành dùng cho từng mùa: Xuân ẩm, hạ ẩm, thu ẩm và đông ẩm. Hình dạng bốn bộ chén này cỡ vừa (không lớn không nhỏ, không dày không mỏng) vào xuân thu gọi là kiểu xuân ẩm và thu ẩm; nhưng kiểu Hạ ẩm dùng cho mùa Hạ chén nhỏ thành mỏng giúp nước nhanh nguội, kiểu Đông ẩm thì chén trà dày và lòng chén sâu giữ cho trà lâu nguội.

Chén uống trà mà chúng ta gọi là tam quân ở đoạn trên, cũng rất quan trọng, người ta phải chọn chén, men chén phải mầu gì để hợp với sắc trà, hoặc làm tăng thêm sắc lóng lánh của trà, trái lại có những màu men làm giảm sắc trà, tức là giảm hứng thú.

Dưới đời nhà Đường, ở phương nam người ta chế được nước men xanh (thanh từ) và ở phương bắc, nước men trắng (bạch từ). Lục Vũ cho màu xanh là màu lý tưởng của chén đựng trà, vì nó tăng thêm màu lục cho nước trà, còn màu trắng thì làm cho nước trà có vẻ hồng hồng kém ngon. Đó là vì ông dùng trà bánh, về sau, khi các tay Trà sư đời Tống dùng trà bột, họ ưa những chiếc bát nặng màu thanh mặc tức xanh đen và màu âm hạt tức nâu sẫm. Người đời Minh uống trà ngâm lại thích dùng những chiếc chén nhẹ men trắng.

Việt Nam ta có loại chén gọi là chén hạt mít, vì có những màu men tựa màu vỏ hạt mít và chén cũng khá nhỏ.

3. Các loại chén trà quý

– Người xưa có câu “ấm đất Nghi Hưng, chén sứ Cảnh Đức”; nói chén uống trà phải nói đến Cảnh Đức Trấn. Trấn này nguyên trước chỉ là một vùng đất thôn dã mang tên Xương Nam, đến niên Cảnh Đức (1004 – 1007) thời vua Tống Thần Tông (960 – 1279), chọn nơi này làm xưởng sản xuất đồ gốm dành cho vua và triều đình dùng (gọi là Ngự Diêu) nên đổi tên thành Cảnh Đức Trấn. Nếu Nghi Hưng có loại đất sét đỏ gọi là tử sa làm ra loại ấm đất lừng danh, thì Cảnh Đừc có loại đất sét trằng gọi là cao lanh làm ra loại chén sứ có tên tuổi không kém phần lừng lẫy. Sứ Cảnh Đức đặc sắc ở điểm có lớp men ngọc nhiều màu và men ngọc bích (celadon), men chén mỏng và nhẹ, tiếng gõ vang trong và ngân rất dài. Với đặc điểm này làm chén dùng trà khiến trà trở nên tươi ngon hơn.

– Việt Nam từ đời Lý-Trần đã làm ra những sản phẩm sứ dùng trà rồi. Dĩ nhiên vào thời nhà Lý chén trà vẫn còn hơi nặng, dù đã tạo ra men ngọc nhưng men chưa được mỏng, tiếng gõ chưa trong và ngân như chén của người Trung Hoa.

Thư tịch Nhật có ghi thiền sư Raku Zengoro, người phò lãnh chúa Ashikara mang về cho thiền viện Kasuga trà cụ – chén trà có dáng bát trà đời Lý, Trần được gọi là An Nam Yaki của làng Chu Đậu, vì rằng người Việt uống chè xanh, chè vối bằng bát nên ảnh hưởng đến chén tống temmonlu của họ sau này.


     
(Bộ trà Hoa Sen Xanh – Gốm Chu Đậu)

Qua đời Trần thì có những sản phẩm không thua kém nhiều, gốm Chu Đậu về kỹ thuật đã đạt, nhưng vấn đề nguyên liệu sản xuất rõ ràng còn thua kém đất của Cảnh Đức Trấn, vốn lừng danh. Đến đời Lê-Mạc, gốm Chu Đậu được giới chuyên môn hiện nay đánh giá “mỏng như giấy, trong như ngọc, trắng như ngà, kêu như chuông” nên có thể nói không còn thua kém nữa. Gốm Chu Đậu hiện đã được thế giới biết đến, dù số lượng trưng bày trong các viện bảo tàng khá hiếm hoi.

– Nhật Bản và Trung Quốc sinh thù nghịch từ thế kỷ 14, hồi quân Nguyên sang đánh Nhật bị ngọn Thần Phong diệt. Khi nhà Minh lên ngôi, từ năm 1371 ra lệnh cấm dân duyên hải xuất ngoại. Đến năm 1567, mới bỏ luật này, nhưng vẫn cấm vượt biển sang Nhật Bản vì nạn “Nụy khấu” (cướp lùn) quấy nhiễu bờ biển Trung Quốc. Suốt mấy thế kỷ đó, Nhật không quan hệ tốt với Trung Hoa, họ quay xuống Nam và đã tìm thấy nơi Đại Việt, thời nhà Lê nguồn cung cấp tơ sống và gốm sứ.

Lúc này Đại Việt đã làm sứ vẽ lam. Gốm sứ trà Việt nhập vào Nhật Bản nhiều hơn trước, đóng vai trò quan trọng trong nghệ thuật Trà Đạo của Nhật Bản đang hồi cực thịnh. Không gò gẫm tỷ mỷ như bàn tày nghệ nhân đời Minh, với mấy nét đơn sơ trên gốm Việt phóng bút cảnh chim trời, cá nước, sơn thủy, tùng thạch .v.v… xuất cái thần vị Thiền, Lão chẳng khác nào tranh tốc họa Sumie; và thuật thư pháp rất hợp với tâm hồn trà nhân Nhật, làm họ say mê. Vẽ gốm như vẽ tranh Thiền. Di sản tranh cổ họa Việt Nam ngày nay chừng như có thể thấy trên gốm cổ.

– Việt Nam ngoài gốm Chu Đậu, ta cũng thường nghe nhắc đến gốm Bát Tràng.

 


(Bộ trà Tử Sa – Gốm Bát Tràng)

Hai chữ Bát Tràng này ta thường nhớ trong bài ca dao:

Trên trời có đám mây xanh,

Ở giữa mây trắng chung quanh mây vàng.

Ước gì anh lấy được nàng,

Để anh mua gạch Bát Tràng về xây.

Xây dọc rồi lại xây ngang,

Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân.

                                            (Ca dao)

Xin ghi ra đây chuyện về tên Bát Tràng, các bạn có thể dùng trong lúc “trà dư tửu hậu”:

Thời nhà Lê, làng Bát – một chữ không thôi- thuộc huyện Gia Lâm, trấn Kinh Bắc. Thời nhà Nguyễn 1822, trấn Kinh Bắc đổi thành Bắc Ninh và làng được gọi là làng Bát Tràng (tháng 11 năm 1949, huyện Gia Lâm thuộc tỉnh Hưng Yên, sau thuộc ngọai thành Hà Nội…). Ngòai ra có sách khác viết tên làng Bạch Thổ vì vùng này có đất sét trắng. Theo một cụ cao niên, người làng Bát Tràng, trươc cũng có làm đồ gốm thuật lại cho biết làng Bát Tràng từ chữ Nôm, bát chỉ đồ gốm và chữ Hán, tràng (hay trường) là đất hay vùng dành cho làng nghề. Làng không làm… gạch, tất cả chỉ là sự ngẫu nhiên: Để nung bát, đĩa, dân làng làm gạch để kê, sau mới có gạch Bát Tràng.

Trong Dư Địa Chí, Nguyễn Trải viết: “Bát Tràng thuộc huyện Gia Lâm, Huê Cầu thuộc huyện Văn Giang. Hai làng ấy cung ứng đồ cống cho Trung Quốc là 70 bộ bát dĩa, 200 tấm vải thâm.” [Nguyễn Trải Toàn Tập – NXB Khoa Học Xã Hội 1998 – Trg. 225] để chứng minh Việt Nam có lò sản xuất ấm trà ở Bát Tràng.

Có người nói: Tên Bát Tràng khởi nguyên từ hai chữ ghép: của thổ ngơi tổng Bạch “Bát” và tên của anh em ông thợ gốm Nguyễn Ninh “Tràng” mà có.

(Còn tiếp nhiều kỳ)

                                                              Nguyên Lạc


READ MORE - TẢN MẠN ĐÔI ĐIỀU VỀ TRÀ (Kỳ 8) – Nguyên Lạc

VỀ THĂM LẠI “BIỂN ĐÊM” – Phạm Đức Nhì



                           Nhà bình thơ Phạm Đức Nhì

     

Vài Lời Phi Lộ

Đọc bài thơ Biển Đêm của Nguyên Lạc tôi đã nổi hứng viết mấy lời nhận xét. Không phải bình mà là nhận xét, và nhận xét chỉ giới hạn ở cách gieo vần của bài thơ. Tác giả không hài lòng với cách nhận xét của tôi đã viết một bài “phản biện”.

Bài viết “Trả Lời Phạm Đức Nhì …” (http://t-van.net/?p=44507) của Nguyên Lạc có nhiều đoạn dài dòng mà hơi xa đề tài tranh luận cho nên để làm rõ những điểm có tính học thuật trong bài viết trước của mình tôi đành Về Thăm Lại “Biển Đêm”.

Tôi sẽ phân tích kỹ hơn, sâu hơn về các chỗ “không khéo” về “vần nguyên chữ”, vần quẩn”, “trụ quá lâu ở thanh huyền” (trong bài tôi viết lầm là thanh bằng).

Ngoài ra, anh Nguyên Lạc cũng nhắc nhở tôi rằng:

“Trước hết xin nhớ rằng: lời nhận xét của các nhà phê bình cũng chỉ chủ quan, nghĩa là tương đối có đúng có sai, vì cảm nhận mỗi người khác nhau. Ông phê bình nói dở nhưng biết đâu độc giả cho hay thì sao? Đừng đem quan niệm chủ quan của mình mà lấn át, áp đặt người khác.”

nên trong bài này tôi cũng nói về tính chủ quan của tôi khi viết câu:

“Độc giả nào đọc cả đoạn mà không cảm thấy ngán cái giọng “ầu ơ” thì quả là có nội công thâm hậu, rất đáng nể phục”.

để anh Nguyên Lạc phải thốt lên:

“Chủ quan ghê chưa?”

Vần Nguyên Chữ

Tôi mến mộ nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông và cũng thích nhạc của ông, nhất là bản Chiều Mưa Biên Giới. Nhưng nghe câu đầu của bản Nhớ Một Chiều Xuân:

“Chiều nay thấy hoa cười chợt nhớ một người, chạnh lòng tôi khơi bao niềm nhớ”

lại thấy cái gì đó chõi chõi, khó chịu. Đó chính là hai chữ “nhớ” trong cùng một ý nhạc. Chữ “nhớ” trước chỉ xuất hiện chớp nhoáng trong khoảng thời gian một “nốt móc đen” ở vị trí phụ giữa câu nhạc. Nhưng kết hợp với chữ “nhớ” sau ở cuối câu - có thời gian ngân dài hơn nhiều - vừa trùng âm, vừa trùng ý, tạo cảm giác nhàm chán đáng kể.

Thi sĩ làm thơ lục bát cũng kỵ gieo vần nguyên chữ, vì vị trí gieo vần là những điểm trọng yếu của câu thơ. Nếu vô tình vướng phải vần loại này cảm giác nhàm chán, so với 2 chữ “nhớ” ở trên, mạnh hơn nhiều.

Trong Truyện Kiều có một cặp lục bát đã được các nhà hiệu đính xoay trở để tránh loại vần này:

Duyên kia có phụ chi tình

Mà toan chia gánh chung tình làm hai.

(3089-3090)

Hai bản Kiều Liễu Vân Đường 1866 và 1871 đều khắc là “tình”. Những bản Kiều khác về sau (Kiều 1870, Kiều 1872, Kiều 1874, Kiều 1902) đều đổi chữ “tình” câu lục thành chữ “mình” để tránh vần nguyên chữ.

 Xét về vần của thơ lục bát – ngoài lạc vận là lỗi nặng – trong số những xử sự không khéo về vần thì vần nguyên chữ, với tôi, gây cảm giác chán ngán, khó chịu hơn những loại vần “không khéo” khác.

Bước Vào “Biển Đêm”

Bây giờ mời độc giả cùng tôi đọc một đoạn thơ khá dài của Nguyên Lạc trong Biển Đêm.

Người về tìm lại thân thương đã rồi..

Biết rằng sương khói mà thôi

Thịt da trên cát hằn tôi nỗi sầu

Biển chiều trời vội trốn mau

Cô đơn lặng nhớ tình đau một thời

Biển xưa bãi cũ tôi ngồi

Hồn nghe sóng vỗ đôi mươi tình nào

Tay ôm thân ngất quyện nhau

Môi thơm ngực ngải cho nhau lần đầu

Đêm nay biển vắng người đâu?

Vầng trăng khuyết tật trên đầu đưa tang

1/ Vần quẩn

Hai chuỗi vần quẩn “rồi thôi tôi” và “thời ngồi mươi” có 4 chữ ăn vần chính vận (rồi thôi tôi ngồi) bị ngăn cách bở chữ “thời” (thông vận gần) nên độ ngọt chỉ ở mức “nghiêng về phía nhàm chán”. Nặng hơn một chút là 3 chuỗi vần quẩn “sầu mau đau”, “nào nhau nhau”“đầu đâu đầu”. Nhưng cộng lại, độ ngọt của vần quẩn chỉ hơn mức “nghiêng về phía nhàm chán” chút đỉnh.

2/ Anh hùng tụ hội

Nhưng không biết tác giả xoay trở thế nào mà để 4 cách chơi vần “không khéo” của thơ lục bát đều quy tụ ở câu:

“Môi thơm ngực ngải cho nhau lần đầu”

     a/ Vần quẩn – như đã nói ở trên.

     b/ Vần ngang câu bát có độ ngọt tương đối cao vì “nhau đầu” là thông vận gần.

     c/ Cặp vần nguyên chữ (nhau nhau) trong đó chữ “nhau” thứ hai là chữ ăn vần cũng có mặt trong câu này. Đây là lỗi nặng, độ ngọt cao, tạo cảm giác nhàm chán đáng kể.

     d/ Trụ quá lâu ở thanh huyền: Cũng ở câu này, 4 cặp lục bát trước, sau khi à ơi ở 4 thanh huyền (rồi sầu thời nào) đến đây lại đáp đúng vào chữ “đầu” – là thanh huyền thứ 5.

Độc giả thử tưởng tượng “tất cả các nguồn tạo ra độ ngọt (4 ‘không khéo’ về vần) từ 11 câu lục bát (78 chữ) đều đổ dồn vào 2 chữ ‘nhau đầu’ thì cảm giác nhàm chán sẽ lên cao đến mức nào?”

Dù anh Nguyên Lạc vẫn ngồi rung đùi ca “Nhưng giữa rừng già tôi có thấy gì đâu” (Rừng Lá Thấp), tôi tin rằng những người thưởng thức thơ sành điệu một chút khi đọc hết 11 câu thơ sẽ thông cảm với nhận xét của tôi:

“Độc giả nào đọc cả đoạn mà không cảm thấy ngán cái giọng “ầu ơ” thì quả là có nội công thâm hậu, rất đáng nể phục”.

vì đã rất rõ ràng, đâu có gì quá đáng.

Đem “Ta Về” Của Lê Văn Trung Để Phản Biện

Ta về trắng cuộc tình duyên

Phố xa lạ phố, người quên, lạ người

Sầu chao nghiêng mái hiên đời

Sầu rơi như chiếc lá bùi ngùi rơi

Ta về, tàn cuộc rong chơi

Chuyến tàu muộn, không còn ai, ga buồn

(Ta Về – Lê Văn Trung)

Hai chuỗi vần “người đời bùi”“rơi chơi ai” là hậu quả của cặp vần ngang câu bát “bùi rơi”, không phải là vần quẩn chính hiệu. Vì “bùi rơi” là thông vận quá xa, hai chuỗi vần này chỉ có 3 chữ ăn vần chính vận (đời rơi chơi), 3 chữ còn lại “người bùi ai” thì “3 phé 3 nơi” – cách nhau xa lắc. Vần quẩn ở đây không gây nhàm chán vần. Anh Nguyên Lạc chưa đụng chạm vần loại này nhiều nên chưa biết.

Tuy nhiên, bài thơ cũng có khuyết điểm về luật:

Chữ “không” trong câu bát cuối lẽ ra phải là một chữ vần trắc. Viết như vậy là sai luật. Sai luật vì vụng chứ không phải vì một “thủ pháp nghệ thuật” nào hết. Thay chữ “không” bằng chữ “chẳng” là êm. Vẫn giữ được ý mà lại đúng luật.

Phê Bình Đừng Chủ Quan

Anh Nguyên Lạc còn nhắn nhủ tôi:

“Phân tích nhưng đừng đưa chủ quan mình vào chê trách. Nhà bình luận cho là dở, biết đâu độc giả cho là hay (thì) sao? Mỗi người có cảm nhận riêng. Có nhớ chuyện ngụ ngôn CON CÁ của Trang Tử không?”

Để trả lời anh Nguyên Lạc tôi xin trích một đoạn văn nói về chức năng của công việc phê bình.

“Để viết phê bình, cần có nhiều điều kiện. Kiến thức. Óc phán đoán. Sự nhạy bén trong nghệ thuật. Khả năng diễn đạt. Và, đến trình độ nào đó, cần thêm một điều kiện khác nữa: chủ kiến.

Hướng tới tương lai, nhà phê bình giỏi không phải chỉ là một kẻ thưởng ngoạn sành điệu mà còn là người quyết liệt tranh đấu cho một lý tưởng thẩm mỹ nhất định.

Tính chất quyết liệt trong tranh đấu làm cho tác phẩm của hắn, về phương diện thể loại, dễ có màu sắc bút chiến; về phương diện tư tưởng, dễ bị xem là xem là cực đoan; về phương diện hiệu quả, dễ gây phân hoá trong hàng ngũ những người cầm bút.

Nhà phê bình nào cũng cần có chủ kiến. Không có chủ kiến, tưởng là khách quan, nhà phê bình chỉ làm nô lệ cho truyền thống và theo đuôi quần chúng. Hắn có thể diễn đạt hay; nhưng cái hay ấy chỉ nhằm củng cố những điều mọi người đã biết. Quanh quẩn trong sân chơi của những cái-đã-biết, hắn rất dễ nhận được những tràng pháo tay, nhưng đó là những tràng pháo tay tống tiễn hắn vào cõi quên lãng.”

(Phê Bình Cần Có Chủ Kiến, Nguyễn Hưng Quốc, tienve.org)

Bình thơ là khen chê một bài thơ. Mà khen chê dựa vào cách hiểu, cách đánh giá Chủ Quan của người bình về bài thơ. Khi bình thơ tôi không quan tâm lắm đến việc “Nhà bình luận cho là dở, biết đâu độc giả cho là hay thì sao?”

Với một bài thơ, “mỗi người có cảm nhận riêng”. Bình thơ với tôi là trình bày, phân tích, biểu lộ cách hiểu, cách cảm nhận riêng của mình về bài thơ; sau đó đưa ra lời khen chê – hay chỗ nào? Và dở chỗ nào? Tuy nhiên, cách nhìn nhận, đánh giá của tôi về bài thơ không phải là kết luận chung cuộc. Độc giả không đồng ý có quyền phản biện.

Chứ nói như anh Nguyên Lạc:

Phân tích thì cần thiết, nhưng chủ quan PHÊ PHÁN hay/ dở là chuyện khác. Thường khi chê người khác dở thì mình “phải” hoặc “tự cho” là mình “hay hơn”, phải không? Trình bày, biểu lộ và cảm nhận riêng là tốt, đừng chủ quan PHÊ PHÁN “quá mạnh tay”, vì như thế sẽ mất đi tính “xây dựng” thì là rất “không hiểu chuyện”.

Như đã nói ở trên:

Bình thơ là “trình bày, phân tích, biểu lộ cách hiểu, cách cảm nhận riêng của mình về bài thơ.”

Tại sao phải phân tích, trình bày như thế? Để có dữ kiện mà đưa ra lời khen chê, chứ nếu không có ý khen chê thì phân tích trình bày làm gì cho tốn công? Mà không khen chê thì sao lại gọi là phê bình?

Với tôi, bình thơ cốt ở chữ “biết” - biết những thước đo và biết cách đo.

Hơn nữa, phê bình phải thẳng thắn, đúng mực. Đừng “quá mạnh tay” nhưng cũng chẳng nên “nhẹ tay”. Phê bình mà cứ “nhẹ tay một chút để đỡ mất lòng” mới là mất tính xây dựng. Còn phê bình thẳng thắn, đúng mực sẽ có lợi cho người được (bị) phê bình và cho cả độc giả nữa.

Một Chút Kinh Nghiệm Về Chủ Quan

1/ Tuyển sinh vào chuyên khoa trên đại học

Khoảng 15 năm trước con lớn tôi đang kể lại cuộc phỏng vấn để vào khoa Dược ở đại học thì vợ một người hàng xóm (mới được bảo lãnh từ Việt Nam qua) phát biểu:

“Hỏi toàn những câu vớ vẩn thế thì làm sao biết được ai giỏi hơn ai để nhận vào trường hả trời?”

Bà hàng xóm không biết rằng những câu hỏi có vẻ ngoài lề ấy chỉ để biết thêm về thái độ của sinh viên đối với việc học và việc phục vụ xã hội sau này (Và tùy trường, còn có vài mục đích khác nữa). Còn “học giỏi hay dở” thì nhà trường đã có trong tay đầu đủ hồ sơ:

     a/ GPA (Grade Point Average): Điểm trung bình mấy năm dự bị.

     b/ Điểm thi SAT (Scholastic Aptitude Test): Kỳ thi “chuẩn hóa” để ghi danh và đại học.

     c/ Điểm thi PCAT (Pharmacy College Admission Test): Bài thi đầu vào trường Dược.

     d/ Hai thư giới thiệu của những người có uy tín quen biết mình.

     e/ Hồ sơ làm thiện nguyện có nhận xét đánh giá của chủ cơ quan.

Những người điểm kém thì đã bị loại thẳng. Những người được mời phỏng vấn thì ban phỏng vấn đã có “chỗ dựa” vững chắc để so sánh, chọn lựa, chứ không phải hoàn toàn chủ quan. Phỏng vấn chỉ để loại bớt một số ít người “yếu cơ” hơn.

2/ Học bình thơ

Từ trường lớp, sách vở tôi được trang bị trên dưới 20 tiêu chí để thẩm định giá trị một bài thơ. Dựa vào những nét đặc thù của thơ ca Việt Nam và kinh nghiệm bình thơ cá nhân, tôi rút xuống còn trên dưới 10 tiêu chí - mà tôi gọi là chỗ dựa - để chuyển từ lối bình thơ lan man sang bình thơ bài bản.

Đó là:

     a/ Tứ thơ

     b/ Ngôn ngữ, hình tượng

     c/ Biện pháp tu từ (thủ pháp nghệ thuật) như ẩn dụ, hoán dụ …

     d/ Thể thơ và cách gieo vần

     e/ Dòng chảy của tứ thơ

     f/ Bố cục (thế trận)

     g/ Cách kết thúc bài thơ

     Riêng phần cảm xúc tôi chia làm 3 tầng:

     i/ Cảm xúc tầng 1: Phát sinh từ cái đẹp của ngôn ngữ, hình tượng, câu thơ, đoạn thơ.

     j/ Cảm xúc tầng 2: Phát sinh thế trận nhịp nhàng, đấu pháp toàn đội chặt chẽ, hợp lý.

     k/ Cảm xúc tầng 3: Nằm giữa những hàng kẻ, phát sinh từ cảm xúc mạnh mẽ lúc làm thơ, trạng thái nổi điên, lạc thần trí của thi sĩ.

Nếu bài thơ có cao trào, hồn thơ sẽ xuất hiện.

Như vậy, bình thơ bài bản, dĩ nhiên vẫn có phần chủ quan nhưng là thứ chủ quan dựa vào logic chứ không phải hoàn toàn cảm tính và đi lan man như bình thơ ấn tượng.

3/ Nhận xét về vần của bài Biển Đêm

Trong bài viết về Biển Đêm tôi chỉ giới hạn nhận xét của mình về vần của thơ lục bát - một chi tiết nặng tính kỹ thuật. Tôi đưa ra 4 cây thước để đo độ nhàm chán của vần và đã giải thích cặn kẽ cách đo của mình. Tôi thấy thế nào thì chê như thế, không “quá mạnh tay” nhưng cũng “chẳng nhẹ tay”. Bàn về kỹ thuật thơ, tuy khó có thể khẳng định là hoàn toàn khách quan, nhưng tính chủ quan, nếu có, cũng rất ít.

XIN CHỪA TÔI RA

Anh Nguyên Lạc còn viết:

“Tặng bạn trích đoạn bài thơ XIN CHỪA TÔI RA post trên FB của tôi”:

Biết bao giờ con người thành thật?

Những ngữ ngôn cảm xúc nở hoa

Xin tha tôi, chừa tôi ra nhé

Lạy các ông lớn tiếng... kèn loa

 

Tôi sợ lắm "cái hòm" đóng sẵn

"Chặt chân tay cảm xúc"cho vừa!

Khủng khiếp lắm, tôi van lạy đó

Kinh lắm rồi thông điệp... Không ưa!..

Đọc đoạn thơ tôi thấy thương anh Nguyên Lạc quá.

Anh chẳng hiểu gì về Liên Quan Giữa Sáng Tác Và Phê Bình. Khi anh đưa tác phẩm của anh ra công chúng, nó sẽ là “gái giữa chợ”. Ông đi qua, bà đi lại đều có quyền ngắm nghía khen chê.

Nếu thơ hay hoặc có điều gì mới lạ, thì dù anh có giơ bảng Stop người ta cũng vẫn bước vào phân tích ngợi khen.

Nếu thơ dở thì dù anh có chào mời, nài nỉ, độc giả cũng nhắm mắt bước qua.

Nếu thơ dở mà tác giả còn có giọng cao ngạo, ta đây thì thế nào cũng có độc giả hiểu biết ghé vào dè bỉu chê bai cho bõ ghét.

Tôi không bình thơ theo yêu cầu. Cũng không bình thơ để “trả đũa” “đụng chạm” hay vì ác cảm với thi sĩ.

Tôi để ý về phần kỹ thuật trong bài thơ Biển Đêm của anh Nguyên Lạc vì nó có hầu như tất cả các lỗi và sự “không khéo” về vần của thơ lục bát. Từ lạc vận, vần nguyên chữ, vần ngang câu bát, vần quẩn, trụ quá lâu ở thanh huyền - đủ hết. “Các anh hùng đều tụ hội ở Biển Đêm.”

Bài viết của tôi sẽ có lợi cho độc giả nhưng dĩ nhiên, buồn lòng tác giả bài thơ. Có điều với tôi, vui buồn của tác giả không là – và không nên là - mối quan tâm của người bình thơ.

Cô Giáo Diên Hồng Dương

Mấy năm trước, cô giáo bình bài thơ Tình Yêu Không Lời của Phạm Trung Dũng. Tôi xía vào bàn tán, phê phán. Cô giáo cũng không vừa, đôi co qua lại. Lời lẽ hòa nhã nhưng đã có mùi gay cấn, căng thẳng. Thế rồi hai người không ai nhường ai nhưng vẫn giao lưu lịch sự.

Hình như là năm ngoái, cô giáo có đăng trên FB lá thư tag tên tôi:

Một năm đã trôi qua, đọc lại bài này, Diên Hồng Duơng thấy không khí tranh luận hồi ấy vui quá. Nếu đừng để sân si lấn sâu thì đâu có gì buồn phiền đâu, phải không anh Phạm Nhì? Bằng chứng là cho đến hôm nay, cô giáo Diên Hồng, người hay làm trò khỉ khọn, hay cảm nhận thơ trên mạng, vẫn là em gái được nhà phê bình Phạm Nhì gửi tài liệu cho đọc, cho học qua đám mây “Phê tê bóc” đều đều phải không ạ?

Cám ơn anh về thái độ hành xử rất đàn anh trong học thuật a.

Chúc nhà phê bình Nhi Pham luôn thăng hoa trong cảm hứng phê bình sáng tạo và luôn phát triển những nét rất riêng trong bút pháp phê bình của mình.

Diên Hồng Dương – Giáo Viên môn Văn Cao Đẳng Sư Phạm Tây Ninh

Tôi rất phục cô giáo Diên Hồng Dương. Trong “chuyện của hai người” cách ứng xử của cô giáo rõ ràng cao hơn tôi một bậc.

Kết Luận

Rồi sẽ đến một lúc nào đó, tâm hồn lắng đọng, hoặc là tôi, hoặc là anh sẽ thấy ít nhiều sai sót trong bài viết của mình. Nhưng nếu lỡ cả hai đều cứng đầu – “sư nói sư phải, vãi nói vãi hay” – thì không biết anh thế nào chứ tôi cứ quyết học cách ứng xử của cô giáo Diên Hồng Dương. Ý mình mình giữ nhưng cũng không làm “hỏng” mối thân tình của hai người đã có từ bấy lâu nay.

Phạm Đức Nhì

nhidpham@gmail.com

phamnhibinhtho.blogspot.com


READ MORE - VỀ THĂM LẠI “BIỂN ĐÊM” – Phạm Đức Nhì