Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Sunday, September 13, 2020

TẢN MẠN VỚI “SAY CỐ NHÂN” THƠ TRẦN MAI NGÂN - Châu Thạch


          


SAY CỐ NHÂN

Rót một ly gọi nhau cố nhân
Một ly xin lỗi hết ân cần
Con đường thẳng tắp xa nhau mãi
Mùa hạ cháy nồng hay xuân phai

Rót một ly ta say, ta say
Bóng em trong đáy cốc hay ai
Chiều nay giăng tím chiều hôm ấy
Em đến bên trời ta mơ hoa

Rót một ly xin lỗi nhạt nhoà
Ký ức bây giờ như vệt tro
Rải trên sông lạnh làm tang chế
Khóc một thời yêu "dáng hoa" xưa...

Rót một ly uống hết không chừa
Nỗi đau, nỗi nghẹn bình rượu đắng
Khứa nát linh hồn ta như dao
Nhớ em ta uống cạn nghìn sau...

Cứ thế ta uống cùng gió sương
Tình em... xin nợ một vết thuơng
Rót thêm ly nữa sầu cô quạnh
Em biết gì không... sao xa nhau !

Em biết vì sao ta xa nhau
Em biết gì không sao xa nhau !

                      Trần Mai Ngân
                          9-3-2019


    


TẢN MẠN VỚI “SAY CỐ NHÂN” THƠ TRẦN MAI NGÂN     
                                                                        Châu Thạch                                                                                                                                               
     Không ngờ một phụ nữ lại làm thơ như một hảo hán. Đọc bài thơ tôi lại nhớ đến những nhà thơ mà tôi có diễm phúc được ngồi uống rượu với họ như Kha Tiệm Ly, Lê Giao Văn, Lê Đình Hạnh, Lê Thiên Minh khoa, Nguyên Bình, Ngã Du Tử, Hải Thụy, Du Phong, Lang Trương…vv.

     Ngồi với những nhà thơ say nầy, tôi thấy mình nhỏ bé lại, nhưng cũng ngập tràn trong lòng sự thích thú. Nhìn họ cụng ly say sưa, đọc thơ nghiêng ngã, mình cảm tưởng như được nhìn những cơn phong ba bão táp đang dậy lên, vừa cuồng nhiệt vừa ướt át làm mê say con mắt ái mộ của mình. Nhìn họ, như đang nhìn những sự kiện ghi lại trong lòng dấu ấn hạnh phúc. Nhìn họ, như được ngắm những hình tượng nghệ thuật hóa thân thành người trước mắt. Nói như thế có quá không? nhưng thật thì trong lòng tôi như vậy.

    Thật tình, tôi thích ngồi với những nhà thơ hơn là đọc thơ của họ. Đọc thơ thì chỉ là nhìn cái bóng của tác giả. Ngồi với nhà thơ, tức là tiếp xúc trực tiếp đến tận nguồn thơ, vì người thơ chính là nguồn thơ vậy.

     Tôi có may mắn gặp nhà thơ Trần Mai Ngân một lần, nhưng chỉ được đưa đi thăm sông nước Vĩnh Long, ăn trưa cùng các bạn tại nhà hàng trong khu vườn sinh thái, nhưng chưa có cơ hội được ngồi uống rượu cùng bạn ấy. Hôm nay đọc bài thơ “Say Cố Nhân” của Trần Mai Ngân viết cho một chàng trai nào đó, nhưng biết đâu có thể viết cho chính mình vì nhà thơ thường dấu tâm tư dưới những điều hư cấu hay gởi nỗi niềm mình vào những ẩn dụ chứa trong thơ.

     Bây giờ thử đi vào khổ thơ đầu tiên:                                        

Rót một ly gọi nhau cố nhân                 
Một ly xin lỗi hết ân cần                 
Con đường thẳng tắp xa nhau mãi                 
Mùa hạ cháy nồng hay xuân phai

     Đây là ly rượu quyết định số phận của cuộc tình. Ly rượu đầu tiên như một lưỡi đao oan nghiệt cắt đứt ngàn sợi chỉ hồng bện thành sợi dây quyến luyến, sợi dây cột chặc hai tâm hồn đam mê lại với nhau.

     Rồi thì mắt ta nhìn thấy một con đường vắng tanh ngun ngút, không mưa sa, không giá lạnh nhưng sầu đến não nuột: “Con đường thẳng tắp xa nhau mãi/ Mùa hạ cháy nồng hay xuân phai”

    Ít khi tôi đọc được một bài thơ thất tình mà ý thơ lạ lùng như vậy. Con đường thất tình thì phải hiu hắt gió sương, mưa rơi và lá rụng, chớ sao con dường đẹp quá, mà lại nồng nàn nắng hạ và hương hoa còn phảng phất buổi xuân phai. Thế nhưng đọc bốn câu thơ, lòng tôi lại cảm nhận thấy mối tình đẹp quá, nó sưởi ấm cả cuộc đời, dầu cho cuộc đời ấy cô đơn và vắng lặng như con đường dài kia kéo đến cuối chân trời.

    Thế rồi nhà thơ chỉ rót thêm một ly thứ hai đã nói “ta say, ta say”:
                      
Rót một ly ta say, ta say                    
Bóng em trong đáy cốc hay ai                     
Chiều nay giăng tím chiều hôm ấy                     
Em đến bên trời ta mơ hoa

     Đúng rồi, vậy cho nên cái đầu đề bài thơ là “Say Cố Nhân” nghĩa là tác giả say hình bóng người xưa chớ không phải say rượu. Chỉ mới ly thứ hai mà bóng em đã hiện trong đáy cốc, nghĩa là tác giả đã nhớ em mà đi uống rượu chớ chẳng phải rượu vào làm cho nhớ em. Nhà thơ đi uống rượu vì “Chiều nay giăng tím chiều hôm ấy” tức là chiều nay tâm trạng nhà thơ đang tím, tím cả cõi lòng vì nhớ đến chiều tím nào đó đã tiễn em đi “đến bên trời”. “Bên trời” có thể là bên kia đại dương, cũng có thể là bên kia thé giới.

     Khổ thơ cho ta nhìn thấy nhà thơ chưa say, nhưng khổ thơ cũng cho ta nhìn thấy nhà thơ buồn đến cực độ. Tôi dùng chữ “buồn” chớ không dùng chữ “sầu” vì với tôi, buồn thì còn cảm giác, nhận biết được chung quanh, còn sầu là tê cứng mọi cảm giác của mình.

    Thế rồi qua khổ thơ sau, Trần Mai Ngân hỏa thiêu tình yêu của mình, rải tro tình yêu trên dòng sông định mệnh:                      

Rót một ly xin lỗi nhạt nhoà                       
Ký ức bây giờ như vệt tro                      
Rải trên sông lạnh làm tang chế                      
Khóc một thời yêu “dáng hoa” xưa...

     Hai câu thơ “Ký ức bây giờ như vệt tro / Rải trên sông lạnh làm tang chế” phác họa một hình ảnh sống động, ảm đạm và kéo dài nỗi buồn thâm nhập vào tâm hồn ta miên man. Đọc thơ, không ai không nghĩ đến con thuyền trên dòng sông và những vệt tro cốt nổi bồng bềnh trôi dài trên sóng nước. Vệt tro rải trên sông lạnh có thể chỉ là biểu tượng của mối tình ly biệt, cũng có thể là tro cốt của nàng đã vĩnh viễn ra đi.

     Nhà thơ uống đến ly thứ tư thì bây giờ nỗi đau ùa đến ngập tràn tâm khảm. Từ đây nhà thơ uống liên tiếp và uống đến ngàn ly:  
                   
Rót một ly uống hết không chừa                       
Nỗi đau, nỗi nghẹn bình rượu đắng                      
Khứa nát linh hồn ta như dao                      
Nhớ em ta uống cạn nghìn sau...

     Đọc cái say của Trần Mai Ngân đến đây, tôi lại nhớ đến cái say của Kha Tiệm Ly. Hai cái say đồng điệu nhau ở lúc nầy. Hãy đọc Kha Tiệm Ly:                      

“Ta bước chân đi vương sợi tóc                          
Đủ làm choáng váng giấc mê say                          
Tàn đêm rượu cạn bao nhiêu cốc                           
Mà ảnh người, như khói thuốc bay!                                        

Réo rắt đàn xưa cung lỗi nhịp                          
Bâng khuâng hồ rượu biết vơi đầy?                          
Ta thèm một chút hương thừa cũ                           
Sao cứ mơ màng như bóng mây?                           

Phật thệ khói sương mờ bốn nẻo                          
Huyền Trân nào lạc bước nơi đây!                          
Bồng bềnh tóc rối bời năm cũ                          
Mãi quyện hồn ta bao ngất ngây!                                                      
Rượu đắng lung linh mờ dáng ngọc                          
Cho ngàn đêm nhớ, với đêm nay. 

             (Tình Say Kha Tiệm Ly)

     Nhà thơ Kha Tiệm Ly thì “Cho ngàn đêm nhớ với đêm nay”, còn Trần Mai Ngân thì “Nhớ em ta uống cạn nghìn sau…”. Hai câu thơ đều nhớ tất cả nhưng Trần Mai Ngân đến bây giờ mới thật sự uống, Ta cứ thử tưởng tượng họ ngồi đối ẩm với nhau đi, mới thấy “uống cạn nghìn sau” và uống “cho ngàn đêm nhớ” nó túy lúy làm sao và nó thi vị biết bao!

    Cuối cùng rồi Trần Mai Ngân cũng phải khóc, cuối cùng rồi cũng thổn thức, cuối cùng rồi cũng bật lên thành lời cay đắng. Đó là lúc hỏi. Hỏi nhưng mà không cần câu trả lời, vì đã say quá đổi, đã đem cơn nhớ đi vào giấc ngủ miên man:                         

Cứ thế ta uống cùng gió sương                         
Tình em... xin nợ một vết thuơng                          
Rót thêm ly nữa sầu cô quạnh                         
Em biết gì không... sao xa nhau !                         

Em biết vì sao ta xa nhau                         
Em biết gì không sao xa nhau !

     “Em biết gì không ta xa nhau” lặp đi lặp lại nhiều lần là lúc chìm vào trong hôn mê, rượu đã nói thay lời!

      Chiều nay Châu Thạch tôi trốn dịch Covid, đi tìm thơ giãi khuây trên trang facebook. Gặp lại bài thơ của cô em bạn thơ kết nghĩa, cảm động thì viết tản mạn, vì bài thơ cho tôi và những ai đọc thơ, chắc cũng thích có một cơn “Say Cố Nhân” như thế!     
                                       
                                                                       Châu Thạch

READ MORE - TẢN MẠN VỚI “SAY CỐ NHÂN” THƠ TRẦN MAI NGÂN - Châu Thạch

TẢN MẠN ĐÔI ĐIỀU VỀ TRÀ (Kỳ 2) - Nguyên Lạc




LỊCH SỬ, NGUỒN GỐC PHÁT TRIỂN VÀ CON ĐƯỜNG ĐI CỦA TRÀ

1. Tên khoa hc
- Năm 1753, Carl Von Liaeus, nhà thực vật học Thụy Điển, đặt tên khoa học cây trà là Thea sinensis, xác định cây trà có nguồn gốc Trung Quốc. Thế nhưng một số học giả Anh lại cho rằng nguồn gốc cây trà là Ấn Độ. Cuộc tranh luận về quê hương cây trà đã kéo dài trên hai thế kỷ.
- Năm 1976, Djemukhatze, Viện sĩ Thông tấn Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô (cũ), sau khi đi khảo sát vùng trà cổ thụ trong 2 năm tại miền bắc Việt Nam, bằng phương pháp sinh hóa thực vật, lại xác định Việt Nam là quê hương cây trà trên thế giới, theo sơ đồ tiến hóa sau đây:
Camellia -- trà Việt Nam -- trà Vân Nam lá to -- trà Trung Quốc -- trà Ấn Độ
 Ta nên nhớ rằng: Khi nhà thực vật học lấy một địa danh nào đặt tên (như sinensis: Trung Hoa) không có nghĩa nơi đó là cái nôi của một loài, mà thường do nơi đó là nơi lần đầu tiên phát hiện), do vậy không thể dựa vào từ "sinensis" để nói cây trà có nguồn gốc từ Trung Hoa.

2. Trà - huyền thoại và lịch sử

- Hình như tất c những gì có người Trung Hoa tham gia vào đều có bên cạnh một vài huyền thoại; trà cũng không ngoại lệ.  Ít ra người Trung Hoa có hai huyền thoại về trà: một huyền thoại mang sắc  thái người Hoa Bắc và một mang sắc thái người Hoa Nam.
    . Huyền thoại thứ nhất của người Hoa Bắc cho rằng cho rằng người đầu tiên phát hiện ra trà chính là Thần Nông (2737- 2697 tr. Công Nguyên). Truyền thuyết này lại được giới thiệu trong cuốn Trà Kinh của Lục Vũ (vào năm 780 sau Công nguyên).
Vua Thần Nông là vị Hoàng Đế huyền thoại rất giỏi về nông nghiệp và y dược. Ngài nếm nhiều loại cây cỏ để tìm dược tính trị bệnh cho dân; “Thần Nông một ngày nếm thử một trăm loại thảo dược và gặp bẩy mươi loại độc và tự mình giải độc.”. Sự tích tìm ra cây trà của Thần Nông cũng được dệt bằng một huyền thoại thần bí. Một hôm, Vua Thần Nông cùng vợ con lên núi, giữa chừng núi vua thấy khát nước thì ngay lúc đó một chiếc lá rơi xuống cạnh chân Ngài. Thần Nông lượm lên và vò nát trong tay mình, chất nhựa dính vào ngón tay và Ngài đưa lên miệng nếm. Vị đăng đắng cho Thần Nông biết nó có dược tình và cảm thấy cơn khát mất đi. Thần Nông bèn đem chiếc lá đó sắc lên, và Ngài là người đầu tiên uống trà. Lại có truyền thuyết nói Thần Nông đun nước dưới một gốc cây, lá cây này rụng và rơi vào nồi. Nước trong nồi có màu vàng xanh và mùi vị thơm ngon, uống vào hết khát: đó là trà.
Người Trung Hoa chứng minh huyền thoại này bằng cách trưng ra cuốn ‘Thần Nông Bản Thảo” , trong đó có ghi tính dược cây trà. Nhưng thực ra tác phẩm này là một biên khảo vào thời Tần-Hán (khoảng năm 220 sau Công Nguyên) do nhiều nhà y học ghi chép và về sau Đào Hoằng Cảnh (457 – 536) chỉnh lý lại và người đời sau bổ sung và sửa đổi khá nhiều. Có điều chúng ta cần lưu ý trong Trung Y (y học trung Hoa) không thấy cổ phương danh tiếng nào dùng trà làm vị thuốc và trong các hiệu thuốc đông dược chẳng thấy ai dùng đến trà cả.
Người Trung Hoa nói thế. Các học giả phương Tây dựa vào tài liệu Trung Hoa thuật lại thế và chúng ta nhắm mắt tin thế. Rồi người Nhật phụ họa thêm truyền thuyết trà là một cây thuốc như sau: vào đời Chiến Quốc một danh y truyền dạy y thuật cho con trai, nhưng chỉ mới truyền được bảy phần thì ông qua đời. Tưởng là phần còn lại thất truyền, nào ngờ nơi mộ ông ta mọc lên một loại cây hội đủ dược tính phần y thuật còn truyền sót; đó là cây trà. Càng về sau, các tài liệu đều ghi: “Khởi đầu trà là một vị thuốc, sau trở thành thứ nước uống giải khát.”
Củng cố thêm cho nguồn gốc cây trà và văn hóa trà xuất phát từ Trung Hoa, người Hoa Bắc còn đưa ra huyền thoại “Các vua nhà Chu đã dùng trà tế lễ từ năm 221 trước Công Nguyên”. Huyền thoại này thực sự có cơ sở chăng?! Nếu từ thời kỳ Xuân Thu Chiến Quốc người Trung Hoa đã dùng trà trong tế tự, ắt điều này phải có ghi trong các kinh lễ của các bậc thánh nhân như Chu Công và Khổng Tử. Đáng tiếc, Kinh Lễ hay Lễ Ký do Đức Khổng Tử san định cũng không hề thấy nói đến trà; sách Luận Ngữ do học trò ngài ghi lại các lời Ngài dạy hàng ngày cũng chẳng thấy nói đến trà; Kinh Thi cũng do Ngài san định là một tác phẩm ghi chép lại các bài ca dao trong dân gian không hề có một chữ trà hay chữ đồ. Trở ngược dòng lịch sử, sách Chu Lễ ghi rất chi li lễ tiết đời Chu cũng không thấy có chữ trà, Hoặc quay xuống đến đời Hán chúng ta thấy có cuốn Sử Ký của Tư Mã Thiên (khoảng những năm 90 trước Công Nguyên), có một thiên Lễ Thư, hay Hán Thư cũng không dành cho trà một chữ. Qua đó có thể nói ít nhất đến đời Hán trà chưa hề được biết đến ở Trung Hoa.
Trái lại chúng ta dễ dàng thấy chữ “tửu” trong các tác phẩm vừa nói, với câu nói nổi tiếng “Vô tửu bất thành lễ”. Điều này cho thấy việc vua nhà Chu dùng trà tế lễ là sự gán ghép đời sau. Nho gia không phải rồi, vậy trà có phải của Đạo gia chăng?! Chắc chắn là không vì biểu tượng thường đi kèm với các vị tiên gia là phất trần và bình rượu chứ không phải ấm trà, và giới đạo gia có thứ rượu Quỳnh tương trên tiên giới thần diệu như nước cam lồ bên Phật giáo. Chỉ mãi sau đến đời Chu Hy (cuối Nam Tống) mới xuất hiện một bài thơ gắn ông tiên với lò nấu trà. Như vậy có thể nói điều Lục Vũ ghi trong Trà Kinh “Thần Nông là ông tổ cây trà” có thể chỉ là lời lượm lặt trong dân gian thích thêu dệt huyền thoại của người Trung Hoa mà thôi.
       . Huyền thoại thứ hai của người Hoa Nam. Huyền thoại này cho rằng chính Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidarma), Sơ tổ Thiền Trung Hoa, là người mang cây trà từ Ấn Độ vào Trung Hoa (năm 519 sau Công Nguyên). Nhờ cây trà mà Ngài thức suốt 9 năm để ngồi nhìn vách đá quán tưởng công án. Tin vào truyền thuyết này nên về sau Thiền Nam Tông có nghi thức uống trà trước tượng Bồ Đề Đạt Ma. Xoay quanh Bồ Đề Đạt Ma lại có một huyền thoại thần bí hơn, lại do người Nhât phụ họa: Sau ba năm diện bích, tổ Đạt Ma kiệt sức và ngủ lịm đi. Khi tỉnh dậy, tổ hối hận và lo lắng, cắt hai mi mắt mình liệng xuống đất. Ít lâu sau nơi đó mọc lên một loại cây bụi, tổ Đạt Ma lấy lá của nó nấu lên uống thì tỉnh ngủ hẳn. Và Ngài tiếp tục diện bích cho hết 9 năm.
 - Cũng lưu ý là các tác phẩm như Hán Sở Tranh Hùng, Tam quốc Chí có nhiều lần nói đến việc uống trà, nhưng điều này không thể khẳng định trà có từ đời Hán vì các tác phẩm này viết vào đời nhà Minh, thời trà Trung Hoa đang ở giai đoạn hoàng kim. Việc các cây bút văn chương lồng một số chi tiết nho nhỏ quen thuộc đương thời vào câu chuyện không phải là điều không xảy ra nếu không muốn nói rất thường.
- Còn nếu lấy huyền thoại làm chứng cứ thì e rằng người Việt biết uống trà và có một nền văn hóa trà sâu xa từ thời Hùng Vương (ngang đời nhà Chu). Ai trong chúng ta cũng đều biết câu chuyện cổ tích Trương Chi – Mỵ Nương , hai chữ Mỵ Nương đủ khẳng định bối cảnh câu chuyện xảy ra vào thời Hùng Vương rồi. Chuyện kể tóm tắt rằng: Chàng lái đò Trương Chi có giọng hát thật hay làm xiêu lòng Mỵ Nương. Nhưng khi gặp khuôn mặt xấu xí của chàng lái đò Mỵ Nương đâm thất vọng, ngược lại trước nhan sắc của Mỵ Nương Trương Chi về ốm tương tư rồi mất. Trương Chi chết hóa thành một hòn ngọc, người thợ đá tạc thành một cái chén uống trà dâng cho gia đình Mỵ Nương. Cứ mỗi lần rót nước trà vào chén Mỵ Nương thấy trong đó có hình chiếc đò bơi qua bơi lại và một tiếng hát từ cõi xa xăm nào đó vọng lại. Thương cảm, Mỵ Nương khóc, giọt nước mắt rơi vào chén trà và chén trà tan thành nước.
- Bên cạnh, người Trung Hoa trưng ra một số tư liệu lịch sử để chứng minh nguồn gốc cây trà của họ. Sự viện dẫn này dựa vào thương mại để chứng minh cây trà và văn hóa trà có nguồn gốc từ Trung Hoa:
      Dẫn Con Đường Trà Cổ (Trà Mã Cổ Đạo): Đây là con đường núi ngoằn ngoèo đi xuyên qua vùng núi Vân Nam – Tứ Xuyên phía Tây Nam trung Hoa, phương tiện vận chuyển chủ yếu là lừa và ngựa. Theo tư liệu của Trung Hoa con đường này hình thành vào đời nhà Đường (618-907), và trà của Trung Hoa theo đường đó bán cho các nước phía Nam.
     Điều này không mấy hữu lý vì tính theo thời gian vùng này thuộc về đất nước Nam Chiếu – Đại Lý.  Thực tế cũng cho thấy đời Đường chưa cai trị được vùng đất này, nếu không muốn nói có nhiều chiến tranh qua lại giữa Trung Hoa và các bộ tộc (nhất là khi vùng này hình thành quốc gia) tại nơi đây. Cứ liệu đáng tin nhất; năm 629 khi Đường Tam Tạng có ý qua Hồ Quốc (tức Ấn Độ) thỉnh kinh, ông phải lén đi vì Đường Thái Tông cấm đi ra nước ngoài. Lý do cấm đoán đó là vì các vùng biên giới không yên ổn và nhà Đường lúc đó không đủ sức thảo phạt . Tình hình như thế cho thấy con đường này thực sự dưới quyền kiểm soát của Nam Chiếu – Đại Lý, trà từ vùng này chuyển đi các vùng lân cận và Hoa Nam để bán . Luận cứ này cho thấy con đường Trà Mã Cổ Đạo này không do nhà Đường mở ra, thực tế nó là một con đường tự phát nhằm trao đổi hàng hóa nhỏ lẻ với Hoa Nam và các nước lân cận Đại Lý. Trà quả là sản phẩm của con đường này nhưng chủ nhân là Đại Lý chứ không phải Trung Hoa. Chính vì thế ta sẽ thấy tập quán uống trà những nước quanh Đại Lý cũ không hề giống thói quen uống trà của người Trung Hoa.
(Phần huyền thoại và lịch sử này được trích từ quyển Trà Thư trong Trà Luận ca nhà biên kho  Đức Chính)

3.  Truy lại cội nguồn nền văn hóa trà
Qua những điều trên chúng ta đ biết: Trà là sn phẩm ca Con Đường Trà Cổ (Trà Mã Cổ Đạo) và ch nhân ca nó là nước Đi Lý.
Lãnh thổ nước Đại Lý bao gồm 3 tỉnh:  Vân Nam, Quý Châu và tỉnh Tứ Xuyên ngày nay. Nước này còn chiếm một phần vùng thượng du miền Bắc Việt Nam và một phần lãnh thổ của Myanmar hiện nay. Trước khi thành lập nước Đại Lý, vùng đất này là của người Bạch và người Di, gồm 6 bộ tộc (gọi là chiếu) Mông Huề, Việt Thác, Lãng Khung, Đằng Đạm, Thi Lãng, Mông Xá, trong số đó Mông Xá là bộ tộc mạnh nhất nằm ở phía nam nên thường gọi là Nam Chiếu. Năm 737, thủ lãnh của Mông Xá là Bì La Cáp mượn thế lực của Đường Huyền Tông thống nhất các chiếu khác thành lập ra nước Nam Chiếu. Điều này có ghi trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư: “Trong khoảng năm Khai Nguyên (713-742) đời vua Huyền Tông nhà Đường, Nam Chiếu là Bì La Cáp cường thịnh lên, mà 5 chiếu kia suy hèn đi. Bì La Cáp mới đút lót cho quan tiết độ sứ đạo Kiếm Nam là Vương Dục để xin hợp cả 6 chiếu lại làm một. Triều đình nhà Đường thuận cho, và đặt tên là Qui Nghĩa. Từ đó Nam Chiếu càng ngày càng thịnh lên, đem quân đi đánh Thổ Phồn (Tây Tạng)Bấy giờ Nam Chiếu đã mạnh lắm, bèn xưng đế và đặt quốc hiệu là Đại Mông rồi lại đổi là Đại Lễ…” Triều đại này tồn tại đến năm 902, Đoàn Tư Bình nổi lên thành lập nước Đại Lý.

                    (Hình Bn đồớc Đại lý)

Vương Quốc Đại Lý tồn tại trên vùng đất này từ năm 937 cho đến năm 1253; kế tiếp nhau bởi 22 đời xưng đế, trong đó có nhân vật Đoàn Chính Thuần được Kim Dung hư cấu vào tiểu thuyết võ hiệp của mình. Sau năm 1253, Đại Lý mất vào tay Nguyên Mông nhưng dòng họ Đoàn vẫn cai trị vùng đất này với tước danh Tổng quản đến tận năm 1387 (vị tổng quản cuối cùng là Đoàn Thế) bị diệt dưới tay Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương. Nước Đại Lý đổi thành phủ Đại Lý, người Bạch và người Di nước lưu lạc xuống phương Nam. Một số thành các dân tộc người ở Việt Nam, Lào và Myanmar (như Thái Trắng, Thái Đen, Thái Đỏ, Lô lô, Nùng); một nhóm đông hơn di chuyển sâu về hướng Nam thành lập nước Thái Lan ngày nay.
Nếu Trung Hoa cho rằng Vân Nam – Tứ Xuyên ngày nay là của Trung Quốc nên nguồn gốc từ Trung Quốc mà ra; chúng ta cũng có thể nói vùng Thượng Du Bắc Việt Nam ngày nay của Việt Nam xưa thuộc Đại Lý, vậy Việt Nam cũng là cái nôi của  thế giới. Theo tôi điều này không hay ho chút nào. Hãy như người Việt, cứ để nền văn hóa Óc Eo là tài sản của vương quốc Phù Nam, Tháp Chàm của người Chăm, … chứ không nhận bừa của người Việt. Tương tự, cội nguồn của trà là người Đại Lý, một vương quốc cổ nay không còn nữa. Và có thể các nhóm dân tộc dùng ngôn ngữ Tạng-Miến như người Thái vùng Tây-Bắc miền Bắc Việt Nam là một thành tố đại diện còn tồn tại đến ngày nay.
Nghiên cứu về văn hóa nên lấy mốc từ khi một sự kiện trở nên phổ quát và đi vào tư tưởng, chứ không nên vin vào một vài chứng cứ vật thể nhỏ để khẳng định đã có một nền văn hóa. Cũng như khi cắm ngọn cờ trên mặt trăng không thể khẳng định con người đã sống trên mặt trăng vào thời điểm đó. Chính trị và văn hóa khác biệt nhau ở chỗ này.
Vậy tại sao ngày nay khi nói đến trà người ta nghĩ ngay đến Trung Hoa và Nhật Bản. Đó là vì họ có phương thức truyền bá tư tưởng tốt: người Trung Hoa bằng các huyền thoại và cửa miệng các Hoa Kiều (chưa kể ngụy thư đời sau viết gán cho người đời trước để làm chứng cứ giả tạo); người Nhật có tác phẩm Book of the Tea của Okakura Kakuzo gây tiếng vang trên thế giới và gây tò mò người Phương Tây nơi nghi thức trà của họ vừa cầu kỳ vừa thoang thoảng kỳ bí.
(Phần truy lại cội nguồn này được trích từ quyển Trà Thư trong Trà Luận ca nhà biên kho  Đức Chính)

4. Các giai đon phát triển trà

- Cây trà nguyên thổ sản của miền Hoa Nam, đã dược các nhà thực vật học và dược vật học Trung Hoa biết đến từ những thời đại rất xa xưa. Các văn gia cổ điển gọi nó bằng những tên khác nhau: Đồ (Tou), Thiết (Tach), Thuấn (Chung), Giả (Kha), và Minh (Ming), và trà được tán dương là có hiệu năng làm cho người ta hết mệt nhọc, tinh thần sảng khoái, ý chí tăng cường và thị lực hồi phục. Người ta không chỉ dùng trà làm thuốc uống bên trong, mà còn hay dùng như một thứ cao đắp ở bên ngoài để trị phong thấp nữa. Các môn đồ Đạo gia coi trà là một vị trọng yếu trong môn thuốc trường sinh bất lão; còn các tăng đồ Phật giáo thì thường dùng trà để chống lại cơn buồn ngủ trong những giờ ngồi trầm tư mặc tưởng dài đằng đẵng.

- Tuy nhiên, phương pháp uống trà thời kỳ ấy hãy còn cổ lỗ hết sức. Người ta lấy lá trà đem hấp lên, bỏ vào cối giã, làm thành bánh rồi đem nấu với gạo, gừng, muối, vỏ cam, hương liệu, sữa, và một đôi khi cả hành nữa! Tập quán này cũng còn thịnh hành trong dân xứ Tây Tạng và các bộ tộc Mông Cổ, họ chế tất cả các vị kể trên thành một chất "xi rô" kỳ xảo. Lối dùng những lát chanh của người Nga tập uống trà tại những đội thương lữ quán Trung Hoa là một lối cổ còn sót lại.

- Sau nhờ thiên tài của Đường triều, trà mới được "giải thoát" khỏi trạng thái thô lậu này và được lý tướng hóa một cách tuyệt diệu. Lục Vũ ở khoảng giữa thế kỷ thứ tám, là đệ nhất sứ đồ của trà. Ông sinh vào thời kỳ mà Phật giáo, Đạo giáo và Khổng giáo đang tìm đường tổng hợp với nhau. Phiến thần luận của tượng trưng chủ nghĩa lúc bấy giờ có ý muốn phản chiếu cái "Phổ biến" (Universal) ra khỏi cái "Đặc thù" (the Particular). Lục Vũ là một nhà thơ, nhận thấy trong bộ đồ trà cũng có đủ cả sự điều hòa và trật tự như trong mọi sự vật khác. Trong tác phẩm danh tiếng của ông là cuốn Trà Kinh (Kinh thư của Trà Đạo), ông đã định thức hóa Pháp điển về Trà. Từ đó ông được thờ như vị thần giám hộ của các nhà buôn trà Trung Hoa.

- Nhưng trà chỉ thật sự phổ cập ở khắp Trung Hoa bắt đầu từ thời Nguyên khi Đại Lý bị diệt và dòng họ Đoàn quy thuận, trà mới có cơ sở thông thương rộng hơn. Qua đời Minh (1368-1644), việc buôn bán trà trở nên rất thịnh vượng nên triều đình lập ra “Bộ Trà Mã” để quản lý và thu thuế, kết quả tất yếu của việc sáp nhập nước Đại Lý vào Đại Minh. Trong bối cảnh đó nhiều tay bút bàn về trà sinh sôi nảy nở là điều tất yếu, và thường hay đề danh tính người đời trước để dễ thuyết phục người đọc (đời nhà Minh nổi tiếng nhiều ngụy tác). Tuy vậy để xuất khẩu trà quy mô phải đợi đến khi kỹ thuật canh tác phát triển và trà được trồng nhiều ở các vùng như Hồ Nam, Hồ Bắc, Chiết Giang, Giang Tô, Lãnh Nam, Kinh Tương, Phúc Kiến, nghĩa là khó sớm hơn thế kỷ 14.

5. Bước đi ca trà

- Vào cuối thế kỷ thứ mười sáu, người Hòa Lan truyền đi cái tin ở Đông phương có loại thức uống làm bằng một thứ lá cây rất ngon. Các nhà du lịch Giovanni Batista Ramusio (1559), L.Almeida (1576), Maffeno (1528), Tareira (1610), cũng nói đến trà. Trong năm cuối cùng kể trên, thương thuyền của Hòa Lan Đông Ấn Độ Công ty đem những lá trà đầu tiên vÂu châu. Trà được nước Pháp biết đến năm 1636, và lọt vào nước Nga năm 1638. Năm 1650, nước Anh hoan nghênh trà và khi nói đến trà thì ca ngợi coi là "một món đồ uống ngon tuyệt, tất cả các y sĩ đều tán thành món đồ uống Trung Hoa, mà người Trung Hoa gọi là trà, các nước khác thì gọi là tê (thé) hay ti (tea)". Trà đã bắt đầu được coi là thức uống quốc tế
Sự giao lưu thương mại giữa Trung Hoa và các nước phương Tây ngày một lớn mạnh bắt đầu từ triều đại nhà Thanh. Khi Hoàng đế Trung Hoa “ngự hít” điếu thuốc lá đầu tiên được mang đến từ Châu Âu, thì Nữ hoàng Anh Quốc cũng đang nhấm nháp tách trà đầu tiên. Vào khoảng năm 1615, các thương gia Anh Quốc với công ty Đông Ấn Độ nhận thức được sự có mặt của Trà. Trà đã nhanh chóng được truyền bá khắp Châu Âu và gần 100 năm sau, khối lượng trà nhập khẩu vào Anh tăng từ 100 pound/năm lên đến hơn 5 triệu pound/năm. Điều này đòi hỏi cần phải có nhiều phương tiện lớn mới mang được tải trọng trà như thế từ Trung Hoa.

- Tại Anh: Theo sử liệu,thì chính Nữ Công Tước Bedford, tác giả quyển “Năm giờ uống trà” rất được người Anh ưa thích. Bà cũng là người đã tạo ra phong trào uống trà vào buổi chiều tại xứ sương mù. Ngày nay tới nhà bất cứ một người Anh nào, đặc biệt là giới trung và thượng lưu trí thức, ai cũng phải lóe mắt trước sự khéo tay và vô cùng thẩm mỹ của các bà nội trợ , trong việc trang trí bàn uống trà với khăn phủ bàn có bình hoa tươi và bộ bình trà làm bằng bạc và sứ men Trung Hoa. Người Anh từ lâu có tập quán đãi khách loại trà sữa hay trà chanh. Cũng theo sử liệu, thì vào thế kỷ XVIII, khi Anh chiếm Hồng Kông và nhiều thành phố lớn khác tại Trung Hoa như Thiên Tân, Thượng Hải, Quảng Châu đã du nhập tập tính uống trà của người Tàu về bản quốc.
Tập quán uống trà ở Anh phát triển mau lẹ không thể tưởng tượng dược, trong nửa đầu thế kỷ thứ mười tám, những quán cà phê ở London, trên thực tế, đã biến thành những phòng trà, nơi hẹn hò của những bậc anh tài như Addison và Steele, tiêu khiển bên những "món trà”. Chẳng bao lâu, trà trở thành một món cần thiết cho đời sống sinh hoạt - một món có thể đánh thuế được.

- Tại Hoa Kỳ: Hằng năm theo thống kê, thì dân chúng Hoa Kỳ tiêu thụ cả chục triệu tấn trà, bằng mọi hình thức như uống nóng, lạnh, trà nguyên chất hay ướp các loại hoa, uống không hay uống chung với đường thêm mật ong, sữa, kem, chanh. Người Mỹ uống nhiều loại trà, từ thứ gọi là Decaffeinated Tea hoặc các loại trà lá, kể cả dược trà bằng lá ổi, lá hồng để trị bệnh va làn tan mỡ, gọi là Herbal Tea.
Xin được nhắc qua về vụ Trà đã dự phần hết sức quan trọng trong sự kiện lịch sử hiện đại. Thuộc địa Mỹ cam chịu áp chế cu Anh cho đến khi sức nhẫn nhục của con người không thể chu đựng được nữa, phải nổi dậy trước những khoản thuế quá nặng đánh vào Trà. Nền độc lập của Mỹ bắt đầu từ ngày người ta quẳng những thùng trà xuống hải cảng Boston: Người Mỹ đã vùng dậy mà ném cả 342 thùng trà xuống biển, để rồi bắt đầu cuộc khởi nghĩa giành độc lập năm 1773. Cố nhiên là không lỗi ở trà, và cũng không phải chỉ vì trà, mà còn nhiều lý do khác nữa; nhưng đã nói đến trà thì cứ nên cho rằng, nhờ đó mà cái gọi là Boston Tea Party trở thành bất hủ.

- Tại Nhật: Cuối thế kỷ 11 đầu thế kỷ 12, cùng với Thiền, trà ở Trung Hoa tràn sang Nhật. Người Nhật tiếp thu cả hai thứ văn hoá vật chất và tôn giáo này, đem nó hoà quyện với văn hoá bản địa và nâng lên thành triết lý riêng của dân tộc là Trà Đạo.
Trà đạo bao gồm những nghi lễ thiêng liêng thấm đượm chất tâm linh tôn giáo, khiến cuộc thưởng trà trở thành một cuộc lễ.
Ngày nay Triết Lý Trà của người Nhật đã trở thành một nghi thức chính thống của một tôn giáo gọi là Trà Đạo, hình thành từ thời kỳ Mạc Phủ Tướng Quân ở thế kỷ thứ XV. Những trà đồ trước khi bước vào trà thất đã tự mình rũ bỏ hết cái thế giới ồn ào bon chen, nhập vào sự tĩnh lặng của tâm hồn, quên hết kể cả cái ta phiền toái đáng phiền.

- Cho đến thế kỷ 19 mà Trung Hoa vẫn còn là nơi độc quyền sản xuất trà bán ra khắp toàn thế giới. Thuở ấy người ta chỉ mới biết mua trà về pha chế thêm, mang bỏ vào hộp, đóng thùng dán lên các thứ nhãn hiệu rồi đưa đi bán lại mà thôi. Càng ngày thấy nhu cầu càng tăng và nguồn lợi càng rõ ràng vĩ đại, người ta nghĩ đến mang giống trà đi trồng ở các miền đất đai các xứ khác mới đủ cung cấp cho cả thế giới.
Người Anh quốc là kẻ tiên phong đã biết dùng ngay đất thuộc địa của mình, tức là xứ Ấn Độ thời ấy, làm nơi trồng trọt và sản xuất trà, thay vì phải mua từ người Trung Hoa. Họ đã lấy giống trà từ Trung Hoa, đón một số chuyên viên Trung Hoa trong ngành trồng tỉa cũng như pha chế, đưa những người nầy sang Ấn Độ để dạy cách thức trồng trọt pha chế cho dân địa phương, và họ đã thành công.
Ngoài ra còn những vùng mà cây trà được trời ban cho cũng mọc lên tự nhiên và hợp khí hậu không kém trà của Trung Hoa đó là những vùng như Việt Nam, Miến Điện, Mã Lai, Lào, Miên.
(Còn tiếp nhiều kỳ)
                                                         Nguyên Lạc

READ MORE - TẢN MẠN ĐÔI ĐIỀU VỀ TRÀ (Kỳ 2) - Nguyên Lạc