Nhà bình thơ Phạm Đức Nhì
BIỂN ĐÊM
Biệt
ly từ cuộc bể dâu
Mất
nhau từ thưở ba đào quê hương
Người
về tìm lại mùi hương
Người
về tìm lại thân thương đã rồi...
Biết
rằng sương khói mà thôi
Thịt
da trên cát hằn tôi nỗi sầu
Biển
chiều trời vội trốn mau
Cô
đơn lặng nhớ tình đau một thời
Biển
xưa bãi cũ tôi ngồi
Hồn
nghe sóng vỗ đôi mươi tình nào
Tay
ôm thân ngất quyện nhau
Môi
thơm ngực ngải cho nhau lần đầu
Đêm
nay biển vắng người đâu?
Vầng
trăng khuyết tật trên đầu đưa tang
Rì
rào lớp sóng kêu than
Gió
ngàn thông réo gọi oan khiên về
Cát
luồn tuôn sợi tay mơ
Tình
luồn ngăn nhớ hương mê thân nào
Thịt
da nhung mượt đêm nao
Hằn
trong ký ức biết làm sao đây?
Biển
ơi có biết tình tôi?
Sóng
ơi sao xóa dấu người tôi yêu?
Bãi
xưa còn lại gì đâu?
Về
chi nghe tiếng khóc gào sóng đau?
Vời
kia một bóng trăng sầu
Nghìn
trùng xa cách biết đâu dõi tìm?
Nguyên Lạc
NHẬN
XÉT VỀ LUẬT VÀ VẦN TRONG BÀI THƠ “BIỂN ĐÊM” CỦA NGUYÊN LẠC
Đây không phải là bài bình thơ mà chỉ là vài nhận xét
về “kỹ thuật” được thi sĩ áp dụng
trong lúc sáng tác bài thơ. Mà trong phần “kỹ
thuật” cũng chỉ bó gọn trong 2 điểm: Luật (bằng trắc) và vần.
Luật
Bằng Trắc
Với cái nhìn phóng khoáng của thơ lục bát đương đại
bài thơ Biển Đêm đã tuân thủ đầy đủ
những yêu cầu về luật bằng trắc – không có chỗ nào sai phạm.
1/ Tất cả 13 chữ thứ 4 của câu bát (bài thơ có 26 câu)
đều là vần trắc.
2/ Tất cả những chữ thứ 6 câu lục, chữ thứ 6 và chữ thứ
8 câu bát đều là vần bằng.
3/ Chữ thứ 6 câu bát thanh ngang thì chữ thứ 8 thanh
huyền và ngược lại.
Những điểm đáng nói đến đều nằm ở cách gieo vần. Trong
thơ lục bát chỉ có “lạc vận” là bị
coi là sai phạm (mắc lỗi); còn những “lủng
củng” về vần khác được coi là những “không
khéo” của tác giả.
Sau đây là những sai phạm và “không khéo” của Nguyên Lạc trong bài thơ Biển Đêm:
Lạc
Vận
Thịt
da nhung mượt đêm nao
Hằn
trong ký ức biết làm sao đây?
Chữ “nao” không
vần với chữ “làm”, hai câu thơ lạc vận
rõ ràng, không phải bàn cãi. Đây là sai phạm (lỗi) nặng về vần trong thơ lục
bát.
Còn 2 câu:
Sóng
ơi sao xóa dấu người tôi yêu?
Bãi
xưa còn lại gì đâu?
thì chữ “yêu”
và chữ “đâu” theo tôi, chỉ là thông vận
xa (hơi quá xa) chưa đến nỗi lạc vận. Tuy nhiên, nếu có ai bắt bẻ, cho là lạc vận
thì tôi cũng không cãi.
Vần
Nguyên Chữ (Chính Tự Vận)
Bài thơ Biển Đêm
có đến 2 cặp vần nguyên chữ mà các tay chơi thơ xưa nay đều tránh - ngoại trừ
trường hợp có lý do thật đặc biệt.
Mất
nhau từ thuở ba đào quê hương
Người
về tìm lại mùi hương
Và:
Tay
ôm thân ngất quyện nhau
Môi
thơm ngực ngải cho nhau lần đầu
Dĩ nhiên, gieo vần như vậy không phạm luật. Nhưng làm
hội chứng nhàm chán vần nặng thêm, mất hay.
Đoạn Kiều 4 câu sau đây cũng có cặp vần nguyên chữ
(xưa xưa)
Vân
rằng: Chị cũng nực cười,
Khéo
dư nước mắt khóc người đời xưa.
Rằng:
Hồng nhan tự thuở xưa,
Cái
điều bạc mệnh có chừa ai đâu ?
(Câu 105 đến 108)
Nhưng về ý nghĩa đã làm câu trả lời của Thúy Kiều xác
đáng hơn, mạnh hơn và hay hơn. Cái hay của ý thơ đã che mờ cái “không khéo” của vần nguyên chữ.
Vần
Ngang Câu Bát - Chữ Thứ 6 Vần Với Chữ Thứ 8
…………….
Hồn
nghe sóng vỗ đôi mươi tình nào
Tay
ôm thân ngất quyện nhau
Môi
thơm ngực ngải cho nhau lần đầu
Đêm
nay biển vắng người đâu?
Vầng
trăng khuyết tật trên đầu đưa tang
…………….
Ở đoạn 5 câu này cặp vần ngang câu bát “nhau đầu” là “thông vận gần” tạo nên trước sau 5 cặp vần. “Nào nhau” là thông vận, “nhau
nhau” là vần nguyên chữ, “nhau đầu”
là “thông vận gần”, “đầu đâu, đâu đầu”
là chính vận. Độc giả nào đọc cả đoạn mà không cảm thấy ngán cái giọng ầu ơ thì
quả là có nội công thâm hậu, rất đáng nể phục.
Vần
Quẩn – “Đi Dăm Phút Đã Về Chốn Cũ”
Đoạn thơ 11 câu dưới đây, 7 câu đầu là vần quẩn - chỉ
mới một lần chuyển vận đã quay về vần cũ. Từ “rồi thôi tôi” quay lại “thời
ngồi mươi”.
Người
về tìm lại thân thương đã rồi...
Biết
rằng sương khói mà thôi
Thịt
da trên cát hằn tôi nỗi sầu
Biển
chiều trời vội trốn mau
Cô
đơn lặng nhớ tình đau một thời
Biển
xưa bãi cũ tôi ngồi
Hồn
nghe sóng vỗ đôi mươi tình nào
Tay
ôm thân ngất quyện nhau
Môi
thơm ngực ngải cho nhau lần đầu
Đêm
nay biển vắng người đâu?
Vầng
trăng khuyết tật trên đầu đưa tang
Sau đó lại thêm 5 câu (câu có chữ “nào” thuộc cả 2 đoạn) trong đó có “cặp vần ngang câu bát” “nhau đầu” khiến cả đoạn có đến 7 cặp vần “au”. Ôi thôi! Ầu ơ hết biết.
Trụ
Ở Thanh Bằng
Thử đọc đoạn 10 câu sau đây của Biển Đêm.
Người
về tìm lại mùi hương
Người
về tìm lại thân thương đã rồi...
Biết
rằng sương khói mà thôi
Thịt
da trên cát hằn tôi nỗi sầu
Biển
chiều trời vội trốn mau
Cô
đơn lặng nhớ tình đau một thời
Biển
xưa bãi cũ tôi ngồi
Hồn
nghe sóng vỗ đôi mươi tình nào
Tay
ôm thân ngất quyện nhau
Môi
thơm ngực ngải cho nhau lần đầu
Chữ thứ 8 của 5 câu bát đều là thanh bằng. Như đã nói ở
trên, viết như thế không sai luật. Nhưng
“không khéo”. Âm vang của đoạn thơ đều đều, đơn điệu (monotone), tính nhạc
không hay. Cộng với những “không khéo”
khác về vần, đoạn thơ càng thêm “ầu ơ”,
buồn ngủ.
Kết
Luận
Bài lục bát Biển Đêm của Nguyên Lạc ngoài việc phạm lỗi
lạc vận còn vướng hầu hết những lủng củng, “không khéo” trong việc gieo vần và
sự chuyển đổi thanh ngang, thanh huyền giữa hai chữ thứ 6 và thứ 8 của câu bát.
Tất cả đều dẫn đến hội chứng nhàm chán vần, khiến âm điệu của bài thơ “ầu ơ”, đọc
có cảm giác chán ngán và buồn ngủ.
Đành rằng tứ thơ và cảm xúc là hai điểm then chốt của
thơ, nhưng vần và dòng chảy của âm điệu, nhịp điệu cũng quan trọng không kém -
nhất là thơ lục bát. Thiếu nó, tứ thơ và cảm xúc cũng không thể lưu chuyển
thong dong, lội bì bõm dưới dòng mương bị nghẽn.
Phạm Đức Nhì