Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Monday, August 31, 2020

NHẬN XÉT VỀ LUẬT VÀ VẦN TRONG BÀI THƠ “BIỂN ĐÊM” CỦA NGUYÊN LẠC - Phạm Đức Nhì


        
                      Nhà bình thơ Phạm Đức Nhì



BIỂN ĐÊM

Biệt ly từ cuộc bể dâu
Mất nhau từ thưở ba đào quê hương
Người về tìm lại mùi hương
Người về tìm lại thân thương đã rồi...

Biết rằng sương khói mà thôi
Thịt da trên cát hằn tôi nỗi sầu
Biển chiều trời vội trốn mau
Cô đơn lặng nhớ tình đau một thời

Biển xưa bãi cũ tôi ngồi
Hồn nghe sóng vỗ đôi mươi tình nào
Tay ôm thân ngất quyện nhau
Môi thơm ngực ngải cho nhau lần đầu

Đêm nay biển vắng người đâu?
Vầng trăng khuyết tật trên đầu đưa tang
Rì rào lớp sóng kêu than
Gió ngàn thông réo gọi oan khiên về

Cát luồn tuôn sợi tay mơ
Tình luồn ngăn nhớ hương mê thân nào
Thịt da nhung mượt đêm nao
Hằn trong ký ức biết làm sao đây?

Biển ơi có biết tình tôi?
Sóng ơi sao xóa dấu người tôi yêu?
Bãi xưa còn lại gì đâu?
Về chi nghe tiếng khóc gào sóng đau?

Vời kia một bóng trăng sầu
Nghìn trùng xa cách biết đâu dõi tìm?

                                       Nguyên Lạc



NHẬN XÉT VỀ LUẬT VÀ VẦN TRONG BÀI THƠ “BIỂN ĐÊM” CỦA NGUYÊN LẠC


Đây không phải là bài bình thơ mà chỉ là vài nhận xét về “kỹ thuật” được thi sĩ áp dụng trong lúc sáng tác bài thơ. Mà trong phần “kỹ thuật” cũng chỉ bó gọn trong 2 điểm: Luật (bằng trắc) và vần.

Luật Bằng Trắc

Với cái nhìn phóng khoáng của thơ lục bát đương đại bài thơ Biển Đêm đã tuân thủ đầy đủ những yêu cầu về luật bằng trắc – không có chỗ nào sai phạm.

1/ Tất cả 13 chữ thứ 4 của câu bát (bài thơ có 26 câu) đều là vần trắc.
2/ Tất cả những chữ thứ 6 câu lục, chữ thứ 6 và chữ thứ 8 câu bát đều là vần bằng.
3/ Chữ thứ 6 câu bát thanh ngang thì chữ thứ 8 thanh huyền và ngược lại.
Những điểm đáng nói đến đều nằm ở cách gieo vần. Trong thơ lục bát chỉ có “lạc vận” là bị coi là sai phạm (mắc lỗi); còn những “lủng củng” về vần khác được coi là những “không khéo” của tác giả.

Sau đây là những sai phạm và “không khéo” của Nguyên Lạc trong bài thơ Biển Đêm:

Lạc Vận

Thịt da nhung mượt đêm nao
Hằn trong ký ức biết làm sao đây?

Chữ “nao” không vần với chữ “làm”, hai câu thơ lạc vận rõ ràng, không phải bàn cãi. Đây là sai phạm (lỗi) nặng về vần trong thơ lục bát.

Còn 2 câu:

Sóng ơi sao xóa dấu người tôi yêu?
Bãi xưa còn lại gì đâu?

thì chữ “yêu” và chữ “đâu” theo tôi, chỉ là thông vận xa (hơi quá xa) chưa đến nỗi lạc vận. Tuy nhiên, nếu có ai bắt bẻ, cho là lạc vận thì tôi cũng không cãi.

Vần Nguyên Chữ (Chính Tự Vận)

Bài thơ Biển Đêm có đến 2 cặp vần nguyên chữ mà các tay chơi thơ xưa nay đều tránh - ngoại trừ trường hợp có lý do thật đặc biệt.

Mất nhau từ thuở ba đào quê hương
Người về tìm lại mùi hương

Và:
Tay ôm thân ngất quyện nhau
Môi thơm ngực ngải cho nhau lần đầu

Dĩ nhiên, gieo vần như vậy không phạm luật. Nhưng làm hội chứng nhàm chán vần nặng thêm, mất hay.

Đoạn Kiều 4 câu sau đây cũng có cặp vần nguyên chữ (xưa xưa)

Vân rằng: Chị cũng nực cười,
Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa.
Rằng: Hồng nhan tự thuở xưa,
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu ?
                         (Câu 105 đến 108)

Nhưng về ý nghĩa đã làm câu trả lời của Thúy Kiều xác đáng hơn, mạnh hơn và hay hơn. Cái hay của ý thơ đã che mờ cái “không khéo” của vần nguyên chữ.

Vần Ngang Câu Bát - Chữ Thứ 6 Vần Với Chữ Thứ 8

…………….
Hồn nghe sóng vỗ đôi mươi tình nào
Tay ôm thân ngất quyện nhau
Môi thơm ngực ngải cho nhau lần đầu
Đêm nay biển vắng người đâu?

Vầng trăng khuyết tật trên đầu đưa tang
…………….

Ở đoạn 5 câu này cặp vần ngang câu bát “nhau đầu”“thông vận gần” tạo nên trước sau 5 cặp vần. “Nào nhau” là thông vận, “nhau nhau” là vần nguyên chữ, “nhau đầu”“thông vận gần”, “đầu đâu, đâu đầu” là chính vận. Độc giả nào đọc cả đoạn mà không cảm thấy ngán cái giọng ầu ơ thì quả là có nội công thâm hậu, rất đáng nể phục.

Vần Quẩn – “Đi Dăm Phút Đã Về Chốn Cũ”

Đoạn thơ 11 câu dưới đây, 7 câu đầu là vần quẩn - chỉ mới một lần chuyển vận đã quay về vần cũ. Từ “rồi thôi tôi” quay lại “thời ngồi mươi”.

Người về tìm lại thân thương đã rồi...
Biết rằng sương khói mà thôi
Thịt da trên cát hằn tôi nỗi sầu
Biển chiều trời vội trốn mau
Cô đơn lặng nhớ tình đau một thời
Biển xưa bãi cũ tôi ngồi
Hồn nghe sóng vỗ đôi mươi tình nào

Tay ôm thân ngất quyện nhau
Môi thơm ngực ngải cho nhau lần đầu
Đêm nay biển vắng người đâu?
Vầng trăng khuyết tật trên đầu đưa tang

Sau đó lại thêm 5 câu (câu có chữ “nào” thuộc cả 2 đoạn) trong đó có “cặp vần ngang câu bát” “nhau đầu” khiến cả đoạn có đến 7 cặp vần “au”. Ôi thôi! Ầu ơ hết biết.

Trụ Ở Thanh Bằng

Thử đọc đoạn 10 câu sau đây của Biển Đêm.

Người về tìm lại mùi hương
Người về tìm lại thân thương đã rồi...

Biết rằng sương khói mà thôi
Thịt da trên cát hằn tôi nỗi sầu
Biển chiều trời vội trốn mau
Cô đơn lặng nhớ tình đau một thời

Biển xưa bãi cũ tôi ngồi
Hồn nghe sóng vỗ đôi mươi tình nào
Tay ôm thân ngất quyện nhau
Môi thơm ngực ngải cho nhau lần đầu

Chữ thứ 8 của 5 câu bát đều là thanh bằng. Như đã nói ở trên, viết như thế không sai luật. Nhưng “không khéo”. Âm vang của đoạn thơ đều đều, đơn điệu (monotone), tính nhạc không hay. Cộng với những “không khéo” khác về vần, đoạn thơ càng thêm “ầu ơ”, buồn ngủ.

Kết Luận

Bài lục bát Biển Đêm của Nguyên Lạc ngoài việc phạm lỗi lạc vận còn vướng hầu hết những lủng củng, “không khéo” trong việc gieo vần và sự chuyển đổi thanh ngang, thanh huyền giữa hai chữ thứ 6 và thứ 8 của câu bát. Tất cả đều dẫn đến hội chứng nhàm chán vần, khiến âm điệu của bài thơ “ầu ơ”, đọc có cảm giác chán ngán và buồn ngủ.

Đành rằng tứ thơ và cảm xúc là hai điểm then chốt của thơ, nhưng vần và dòng chảy của âm điệu, nhịp điệu cũng quan trọng không kém - nhất là thơ lục bát. Thiếu nó, tứ thơ và cảm xúc cũng không thể lưu chuyển thong dong, lội bì bõm dưới dòng mương bị nghẽn.

Phạm Đức Nhì

READ MORE - NHẬN XÉT VỀ LUẬT VÀ VẦN TRONG BÀI THƠ “BIỂN ĐÊM” CỦA NGUYÊN LẠC - Phạm Đức Nhì

Sunday, August 30, 2020

VỌNG TƯỞNG BÌNH YÊN - Thơ Đỗ Anh Tuyến



 VỌNG TƯỞNG BÌNH YÊN


Cả thế giới đang gào thét tên em

Chỉ riêng anh âm thầm và vẫy gọi

Bình yên về trào dâng trong vọng tưởng

Suốt bốn mùa em vẫn chỉ là em.

 

Cả thế giới đang khao khát yêu em

Chỉ riêng anh là lao xao nức nở

Nụ thanh xuân ngọt ngào và rực rỡ

Đêm trái mùa chẳng có một giọt sương.

 

Còn lại em giữa thế giới yêu đương

Anh hát khúc du ca quạnh quẽ

Trên chuyến đò chỉ mình anh lặng lẽ

Làm Trương Chi đưa tiếng khóc vào bờ.

 

Nàng Mị Nương vẫn vô cảm thờ ơ

Em đi lại giữa muôn trùng khói nhạt

Niềm vọng tưởng bình yên anh khao khát

Chảy vào đời những kí ức loanh quanh.

*.

ĐỖ ANH TUYẾN

 Khu Cộng Hòa, thị trấn Thanh Nê,

huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình

Email: dovantuyenbk@yahoo.com.vn


READ MORE - VỌNG TƯỞNG BÌNH YÊN - Thơ Đỗ Anh Tuyến

CHO SÓNG BẠC ĐẦU NHỚ THƯƠNG NHAU - Thơ Nguyễn An Bình

 


NGUYỄN AN BÌNH

 

CHO SÓNG BẠC ĐẦU NHỚ THƯƠNG NHAU


Chiều buông sợi nắng lên tiếng hát

Ngả xuống đồi tây những đóa vàng

Tìm bước chân người in trên cát

Chỉ thấy bờ hoang dấu dã tràng.


Tim tím mùa hoa rau muống biển

Yêu chi màu tím thuở xuân thì

Chân sóng vô tình làm khách lạ

Áo người bay qua cõi tà huy.


Khơi xa đèn biển trầm thiên cổ

Một kiếp phù sinh có đợi chờ

Cổ thạch chập chùng soi bóng núi

Tàn đêm còn thắp mãi tâm hư.


Chim nhạn lẻ bầy bay qua biển

Lô nhô ghềnh đá dẫu mưa ngàn

Hỏi người xa khuất tầm tay với

Neo bờ thuyền lạc bến trần gian. 


Tóc có bao giờ nguôi cơn gió

Thả trôi theo sóng tự lúc nào

Cúi hôn bờ cát buồn đến lạ

Cho sóng bạc đầu nhớ thương nhau.


*Mũi Kê Gà-Phan Thiết 27-7-20

  Sài Gòn 5-8-20

N.A.B.







 






READ MORE - CHO SÓNG BẠC ĐẦU NHỚ THƯƠNG NHAU - Thơ Nguyễn An Bình

ĐỀN KIẾP BẠC VÀ NIỀM TIN CẦU PHÚC, TRỪ TÀ, BAN CON, BAN CHỨC - Đặng Xuân Xuyến

 


ĐỀN KIẾP BẠC VÀ NIỀM TIN CẦU PHÚC, TRỪ TÀ, 

BAN CON, BAN CHỨC

 

Trong tâm thức dân gian, Hưng Đạo Đại Vương được vinh danh là đức Thánh Trần và đồng nhất Ngài với Ngọc Hoàng thượng đế, từ đó tạo nên một dòng Đạo Nội - đạo Thanh Đồng, mà đức Thánh Trần là giáo chủ.

 

 Suốt mấy trăm năm qua, Đức Thánh Trần đã thực sự có ảnh hưởng sâu đậm tới đời sống tâm linh của người dân Việt. Nhất là tín ngưỡng hầu đồng, ban ấn... ở đền Kiếp Bạc.

 

Hầu đồng là một nghi thức trong hoạt động tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Về bản chất, đây là nghi thức giao tiếp với thần linh thông qua các ông đồng, bà đồng. Người ta tin các vị thần linh có thể nhập hồn vào thân xác các ông đồng, bà đồng nhằm phán truyền, diệt trừ tà ma, chữa bệnh, ban phúc, ban lộc cho các con nhang, đệ tử. Khi thần linh nhập vào đồng thì lúc đó các ông đồng, bà đồng không còn là mình nữa mà là hiện thân của vị thần nhập vào họ. Người đứng giá hầu đồng gọi chung là Thanh Đồng, Thanh Đồng là nam giới thì được gọi là "Cậu", nữ giới được gọi là "Cô hoặc Bà đồng".

 

Ngoài việc lên đồng để giao tiếp với thần linh, tín ngưỡng truyền thống Việt Nam còn tin rằng sau khi chết, linh hồn người chết vẫn còn và theo dõi cuộc sống của người thân đang sống.

 

Do đó, khi lên đồng, linh hồn của người chết có thể nhập vào Đồng Cô, Đồng Cậu để trò chuyện với thân nhân đang sống. Thông qua cuộc trò chuyện này, người sống sẽ biết được những yêu cầu của người thân đã quá cố và người sống cũng biết được vận mạng tương lai của mình.

 

Trong ngày hội, những người đàn bà mắc chứng vô sinh, hiếm muộn hoặc mắc các chứng bệnh của phụ nữ... đến Đền cúng bái. Thầy cúng sẽ dùng roi dâu đánh vào người “bệnh nhân” và “bệnh nhân” ấy lăn lộn, thậm chí lăn xuống sông, thì coi như tà ma đã được diệt trừ (xuất phát từ truyền thuyết Hưng Đạo Đại vương chém Phạm Nhan). Người ta tin rằng, với uy danh của đức Thánh Trần trừ diệt được Phạm Nhan thì mọi tà ma đều được trừ diệt.

 

Ngoài ra, trong hội đền Kiếp Bạc, nhân dân còn đến Đền mua thuốc ở Nam Tào (Dược Sơn) về uống rất là hiệu nghiệm.

 

Dân trong vùng có tục lệ đầu năm đến đền Kiếp Bạc để cầu được bình an, học hành hiển đạt, làm ăn phát tài, tránh được mọi điều xui xẻo và phổ biến nhất là việc cầu được có con nối dài hương hỏa.

 

Tục truyền, người đến cầu con khi đến Đền, phải tuân thủ: "Vào cửa cha, ra cửa mẹ" (Dưới pho tượng đồng của Đức Thánh Trần và Đức Quốc mẫu có cửa chui qua) hay xin một ít đất ở mô cao sau Đền thì thế nào cũng sẽ được thỏa nguyện. Dân gian còn tín: nhà nào "hữu sinh vô dưỡng" hoặc con sinh phạm vào giờ quan sát, thiết tỏa...  khó nuôi thì làm lễ bán khoán vào Đền. Đến năm đứa trẻ 12 tuổi thì gia đình biện lễ chuộc con về, làm như thế đứa trẻ sẽ được bình yên vô sự.

 

Theo lệ cổ, đêm 18 tháng 8 (Âm lịch), trước ngày ngày giỗ Đức Thánh Trần, chính quyền sở tại cùng với thủ từ làm lễ đóng ấn vào một tấm lụa màu vàng để đến hội ban cho khách thập phương.

 

- Ấn thứ nhất, kích thước 10cm x 10cm, khắc chữ Trần triều Hưng Đạo vương chi ấn (ấn của Hưng Đạo vương triều Trần).

 

- Ấn thứ hai, kích thước 5,5cm x 5,5cm, khắc 4 chữ Quốc pháp Đại vương (Đại vương nắm (giữ) phép nước).

 

- Ấn thứ ba, kích thước 4,3cm x 4,3cm, khắc 4 chữ Vạn Dược linh phù (Bùa thiêng Vạn Dược).

 

- Ấn thứ tư, kích thước 5,2cm x 7,8cm, khắc 6 chữ Phi thiên thần kiếm linh phù (Bùa thiêng phi thiên thần kiếm).

 

 Muốn cầu được thăng quan tiến chức thì xin ấn Triều triều Hưng Đạo vương chi ấn, hoặc Quốc pháp Đại vương; cầu được sinh con, cầu xin việc trừ tà sát quỷ, diệt giặc dã, giữa bệnh, thì xin ấn Phi thiên thần kiếm linh phù.

 

Sau khi làm lễ ban ấn, nhân dân xin ấn về treo ở nhà để gặp nhiều may mắn. 

 ***

(Trích từ VÀO CHÙA LỄ PHẬT NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT của Đặng Xuân Xuyến ; Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin 2006)

 

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

READ MORE - ĐỀN KIẾP BẠC VÀ NIỀM TIN CẦU PHÚC, TRỪ TÀ, BAN CON, BAN CHỨC - Đặng Xuân Xuyến

THÊM MỘT TƯ LIỆU CHO CUỘC HÀNH TRÌNH ĐI TÌM LĂNG MỘ VUA QUANG TRUNG - Hoàng Hương Trang


 
         Tác giả Hoàng Hương Trang


Từ trước đã có nhiều nhà nghiên cứu sử học đưa ra nhiều giả thuyết về nơi chôn cất vị anh hùng vĩ đại Nguyễn Huệ Quang Trung, nhưng chúng ta vẫn chưa tìm ra được cụ thể nơi nào là lăng tẩm của Người. Vừa rồi, nhân đọc một số tư liệu văn học xứ Thanh, tôi tình cờ bắt gặp một bài thơ lạ từ trước đến nay ít người đọc đến, chưa ai lưu tâm đến bài thơ này, nhưng lại là một bài thơ đặc biệt có nhắc đến nơi chôn cất vua Quang Trung. Tác giả bài thơ đã từng thấy linh cữu vị anh hùng áo vải cờ đào này một cách cụ thể, suy ra là chính tác giả đã từng tham dự trong đám tang này nên mới có bài thơ như thế.

Nhà thơ chính là ông Cả Triệu (1771 – 1846). Tên thật là Lê Triệu, tự Ôn Phủ, hiệu Liên Khê, sinh năm 1771 mất năm 1846, thọ 76 tuổi. Quê ở làng Liên Sơn, nay thuộc xã Hoàng Phong, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Ông tuy là một nhà nho không đỗ đạt, nhưng được người đời ca tụng là rất giỏi chữ nghĩa văn chương. Tài năng của ông được đánh giá qua câu nói cửa miệng của dân chúng còn lưu truyền: “Nghệ Hai Hành, Thanh Cả Triệu” (Hai Hành, tức Nguyễn Hành, cháu gọi Nguyễn Du là chú ruột). Cả Triệu có tài xuất khẩu thành thơ, ứng đối nhanh nhẹn, thơ phú cứ tuôn ra một cách tự nhiên. Nhưng ông lại rất phóng khoáng. Những bài thơ phú, ngâm vịnh, đọc xong là ông quên luôn, không bao giờ ghi chép lại. Cho đến nổi những bài thơ phú đó có khi bạn bè ông nhớ được, chép ra, và cũng tự nhiên “cho là bài của mình” ông cũng không có ý kiến gì. Ông quan niệm “Thơ làm xong là thả bốn phương, không còn là của mình nữa”. Do vậy tác phẩm của ông đã bị tiếm dụng rất nhiều. Đến nay con cháu chỉ còn tìm thấy có một tập nhan đề “Liên Khê Nam Hành tạp vịnh” gồm trên 200 bài thơ. Trong cuốn này đặc biệt có bài “Kiến Quang Trung linh cữu” (thấy linh cữu vua Quang Trung) như sau:

KIẾN QUANG TRUNG LINH CỬU

“Trấp niên sất sá tấu phong vân
Như thử anh hùng cổ hãn văn
Hàm Dã độc lưu thiên vạn cốt
Khuân sơn họa tại bách niên phần
Không hàm chỉ chỉ thiên thu hận
Cô phụ đường đường bát xích thân
Quan cảnh nhất ban thành phấn mị
Linh nhân chung cổ tiếu Doanh Tần”.

Cả Triệu Dịch thơ:

NHÌN THẤY LINH CỮU VUA QUANG TRUNG

“Bao năm thét mắng át phong vân
Đủ thấy anh hùng – bậc vĩ nhân
Hàm Dã hận vùi muôn vạn xác
Khuân Sơn phần mộ họa trăm năm
Ngậm hờn chỉ trích ngàn thu hận
Nỡ phụ đường đường tám thước thân
Quang cảnh thảy đều thành cát bụi
Khiến đời muôn thuở cợt Doanh Tần”.

                     (Hoàng Phi phiên âm và dịch)

Trong bài thơ này đã chỉ rõ địa danh nơi an táng vua Quang Trung chính là núi Khuân Sơn. Khuân Sơn theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí là một ngọn núi ở phía Nam, huyện Phong Điền tỉnh Thừa Thiên – Ngọn núi này còn có tên là Thương Sơn có hình dáng tròn như vựa thóc. Bài thơ trên đây là một tư liệu quý giá, xin được trích đăng và đóng góp vào cuộc hành trình đi tìm lăng mộ vua Quang Trung, một bậc anh hùng vĩ nhân của dân tộc ta. Có hai địa danh quý báu về sự nghiệp của vua Quang Trung. Một là ngọn núi Bân, nơi vị anh hùng Nguyễn Huệ lên đó tế cáo trời đất, xưng Hoàng Đế Quang Trung trước khi xuất binh thần tốc Bắc tiến đánh tan 30 vạn quân Thanh xâm lược. Hai là nơi yên nghỉ cuối cùng của Người mà lâu nay vẫn chưa tìm thấy. Núi Bân là đàn Nam Giao của vua Quang Trung vẫn còn nguyên vẹn ở gần núi Ngự Bình thuộc địa phận Thừa Thiên-Huế (*). Nhưng lăng mộ thì đã không còn, hay chưa tìm thấy. Các nhà sử học và nghiên cứu Huế học cũng đã có nhiều giả thiết, nhưng riêng tôi chưa đọc thấy bài nào có nêu địa danh núi Khuân Sơn ở huyện Phong Điền. Vây nên chăng, quý vị lại mở rộng hướng truy tìm về địa danh này. May ra hồn thiêng sông núi phù hộ chúng ta sẽ tìm được nơi yên nghỉ cuối cùng của hoàng đến Quang Trung chăng? Xuân năm Tuất 2006

                                                       Hoàng Hương Trang


(*) Hiện nay tỉnh T.T. Huế đã lấy núi Bân xây dựng Quảng Trường Quang Trung.

READ MORE - THÊM MỘT TƯ LIỆU CHO CUỘC HÀNH TRÌNH ĐI TÌM LĂNG MỘ VUA QUANG TRUNG - Hoàng Hương Trang

LỜI RU MẸ, CHUYẾN ĐÒ CHIỀU THU - Thơ Nguyên Lạc





LỜI RU MẸ

"Gió mùa thu mẹ ru con ngủ
Năm canh chầy thức đủ vừa năm"
                          (Hát ru Nam bộ)

À ơi mẹ hỡi mùa thu
Mùa thu năm đó biệt mù con đi
Đem theo tàn mộng xuân thì
Bao năm chờ đợi... còn gì nữa đâu?!

Ngày về trông trước nhìn sau
Tìm đâu bóng mẹ? ... "Trên đầu mây bay"
Bao năm "cải tạo" đủ dài
Đủ cho mắt mẹ khóc ai hóa mù!

À ơi con hỡi mùa thu
Những lời ru mẹ nghìn thu vẫn còn
Bao năm mẹ đã ru con
Giờ con ru lại... lời buồn mẹ ru

À ơi con hỡi mùa thu
À ơi mẹ hỡi... Tìm đâu bóng hình?!


CHUYẾN ĐÒ CHIỀU THU

1.
"Chiều nay lòng sông rộng
Nắng đang khám nội soi" *
Tìm ra một căn bệnh
Bể dâu... nỗi đoạn đoài!

Trong ký ức phôi phai
Giăng giăng trời mây trắng
Bến xưa chiều nghiêng nắng
Sóng vỗ hồn mênh mang

Nhấp nhô chiếc đò ngang
Khách ra đi tìm mộng
Thẫn thờ người ở lại
Lặng lẽ bến vời trông

2.
Bao mùa tiếng thu không
Thầm lặng lòng mong ngóng
Phai tàn theo năm tháng
Người có biết hay không?

Chiều thu đi tìm mộng
Khách hẹn mùa xuân sang
Xuân thu người mắt đợi
Nhân ảnh chiếc đò ngang

3.
Khách trở về mắt lạ
Đâu phải người năm xưa
Kiêu hảnh khách ngẩng mặt
Từ chối nhìn quen xưa

Khách giờ trông lạ lẫm
Ngôn lời không như xưa
Quên mất chiều thu ấy
Chuyến đò ai tiễn đưa

4.
Hai mươi năm đủ chưa?
Cho một cuộc đợi chờ
Hẹn ước nào đã hứa
Thành hiện thực hay chưa?

Bến xưa chiều nghiêng nắng
Mây trắng vầng khăn tang
Sóng vỗ lời cay đắng
Gặp lại chi... phũ phàng!

.......

* thơ Thanh Van Pham

                     Nguyên Lạc

READ MORE - LỜI RU MẸ, CHUYẾN ĐÒ CHIỀU THU - Thơ Nguyên Lạc

Saturday, August 29, 2020

VU LAN, MẸ LÀ HƯƠNG TRẦM - Trần Mai Ngân





Mẹ là nén nhang trầm vừa tỏa hương vừa rụi tàn !

*** Khi mang con...
Mẹ ve vuốt, vỗ về con hãy ngoan nào, hãy để nỗi buồn mẹ nguôi dịu, để mẹ quên đi mà chỉ nghĩ đến con. Một hình hài trọn vẹn đang lớn dần theo mẹ từng ngà... từng ngày!

*** Khi con ra đời...
Mẹ đón con với nụ cười và cả giọt nước mắt khi nghe tiếng con khóc khỏe mạnh vang lớn nhất phòng sanh. Mẹ mỉm cười cảm ơn cuộc đời.

Năm tháng trôi qua từ con ấu thơ đến trưởng thành mẹ chỉ biết sống vui, buồn và thở theo con. Mẹ đã không nghĩ và nhớ đến mình là ai nữa, chẳng cần chi vui buồn... Mọi thứ trên đời như không có gì quan trọng với mẹ hơn là con. Con đã là tất cả.
Rồi con vu qui, rồi con trai sẽ lấy vợ. Con ra đời làm việc.
Mẹ hạnh phúc vì nhiệm vụ đã hoàn thành. Con của mẹ đã nên người, một người rất đàng hoàng tử tế !

*** Góc của Mẹ
Bây giờ thì mẹ sẽ thu về bóng mình, thu về góc của mẹ.
Làm sao khỏi đến lúc mẹ chậm chạp nhớ, chậm chạp đi đứng , chậm chạp trả lời... Ôi... lúc ấy có lẽ mẹ cần con thương yêu biết chừng nào.
Con hãy kiên nhẫn đợi mẹ nhớ, đợi mẹ một chút thôi con nhé ! Để mẹ từ từ nhớ... như thuở nhỏ mẹ đợi con cố nhớ tên gọi một đồ vật mà mẹ mới vừa dạy con. Hoặc có lúc mẹ sẽ ngớ ngẫn hỏi mãi một điều nhiều lần... xin con hãy đừng giận dỗi mà hãy nhớ lại ngày xưa mẹ đã dịu dàng trả lời mươi lần hơn chỉ một câu hỏi của con. Và còn nhiều nhiều điều nữa con ạ, kể sao cho hết...

Tà huy nhuộm vàng cuối Thu. Rồi cũng đến lúc mẹ nói lời chia tay con. Bao nhiêu năm tháng mẹ con mình có nhau con nhỉ... Con có nhớ và đã có nhìn kỹ gương mặt của mẹ, màu mắt của mẹ, môi cười tươi hay héo hắt của mẹ... như mẹ đã thuộc từng đường nét trên người của con...
Hãy ngắm nhìn kỹ con nhé, khi còn có thể và hãy nói lời yêu thương nhất khi còn có thể... Chắc chắn rồi tất cả sẽ mất đi , vĩnh viễn không còn quay lại cùng con lần nào nữa. Là một ngày mẹ phải buông tay con ra và bỏ con đi mãi dù lòng mẹ không nguôi yêu thương, không muốn xa lìa...

Vu Lan đến mọi người chúc tụng nhau về MẸ.
Mẹ thì lại muốn chúc con của mẹ luôn khỏe mạnh, an lành và hạnh phúc trong cuộc đời này.
Còn mẹ, riêng mẹ... mẹ chỉ xin mãi là nén nhang trầm vừa tỏa hương vừa rụi tàn theo năm tháng đã dành hết cho con.

                                                                  Trần Mai Ngân

READ MORE - VU LAN, MẸ LÀ HƯƠNG TRẦM - Trần Mai Ngân

BA TRĂM NĂM NỮA, BÃO HỒN TÔI CUỒN CUỘN BẾN SÔNG NGƯỜI, BẤT LỰC, BAY VỀ ĐÂY NHÉ CHIM ƠI - Thơ Lê Văn Trung



                   Nhà thơ Lê Văn Trung


BA TRĂM NĂM NỮA
“Bất tri tam bách dư niên hậu”
                             Nguyễn Du

ba trăm năm nữa quay về
cố hương lân lý bạn bè còn ai
ba trăm năm sẽ đầu thai
suối xưa rừng cũ sương mai gió chiều
làm con chim đứng quạnh hiu
bên mồ thiên cổ tiếng kêu đoạn trường

ba trăm năm còn một phương trời?
hay là lạc giữa vô thường phù du”
hay là lạc giữa thiên thu
cuối vòng sinh diệt tìm đâu cõi người?

trăm năm tàn cuộc đầy vơi
tàn cơn huyễn mộng cạn đời tài hoa
ráng chiều nhạt cuối trời xa
ba trăm năm gởi sầu qua vạn trùng

thuyền ai đậu bến vô cùng
mái chèo khua nhẹ nỗi buồn Tố Như
ba trăm năm nữa – bây giờ
giọt đàn vỡ xuống đôi bờ có – không.


BÃO HỒN TÔI CUỒN CUỘN BẾN SÔNG NGƯỜI

Trời đang mưa! Nơi ấy trời đang mưa?
Cơn bão rớt tràn qua thành phố nhỏ
Xin là gió tràn qua vùng biển nhớ
Chỉ nhẹ nhàng lay nhẹ tóc tương tư

Bão hồn tôi cuồn cuộn những dòng thơ
Thổi thao thiết qua vườn xưa xao xác
Thổi da diết qua vườn em xanh ngát
Cho áo chiều bay theo lá chiều lay

Cho nắng nằm ngủ muộn ở trong mây
Nghe bão chảy qua hồn chiều bối rối
Nghe tình chảy qua rừng tôi dữ dội
Tôi suối tràn khe, tôi vỡ tràn sông

Em có nghe sóng vỗ réo trong lòng
Môi tình ái cũng vỡ bừng cơn mộng
Em níu lại gió hồn tôi bão động
Em ôm ghì cơn gió tôi nôn nao

Em sợ tình xưa gió thổi về đâu?
Trời bão rớt trong lòng tôi bão rớt
Chiều bão rớt mà hồn tôi mưa ướt
Bão hồn tôi cuồn cuộn bến sông người.
                       

BẤT LỰC

Ai cũng đã một lần Ta cũng thế
Chạy loanh quanh qua rú rậm rừng già
Chợt ngoảnh lại thấy trùng trùng dâu bể
Mới biết mình không vượt nổi một sát na.
                              

BAY VỀ ĐÂY NHÉ CHIM ƠI
(Tặng một tấm lòng nhân ái)

Chim về đậu dưới hiên mây
Trên đôi cánh mỏng ướp đầy tình vui
Xuống đây chim nhé, chiều rồi
Lòng em vải hạt ngọc trời chim ăn

Xòe đôi cánh rất dịu dàng
Chim bay nhè nhẹ vào trang thơ hồng
Bay vào em một tấm lòng
Là bay vào cõi mênh mông thiện lành

Là bay vào cõi trời xanh
Hoa lòng nở tỏa hương tình từ tâm
Bay về đây nhé ơi chim
Lòng em dâng vẹn trái tim nguyện cầu.

                                       Lê Văn Trung

READ MORE - BA TRĂM NĂM NỮA, BÃO HỒN TÔI CUỒN CUỘN BẾN SÔNG NGƯỜI, BẤT LỰC, BAY VỀ ĐÂY NHÉ CHIM ƠI - Thơ Lê Văn Trung