Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Wednesday, August 7, 2019

LẼ VÔ THƯỜNG TRONG THƠ TRANG TỬ, NGUYỄN BÍNH, XUÂN DIỆU… - La Thụy


  
                 “Học làm Trang Tử thiêu cơ nghiệp

              Khúc Cổ bồn ca gõ hát chơi”


LẼ VÔ THƯỜNG TRONG THƠ TRANG TỬ, NGUYỄN BÍNH, XUÂN DIỆU…

Tình cờ lướt web, đọc bài Đạo Chích (chương 29, Trang Tử Nam Hoa Kinh), tôi cứ tủm tỉm cười. Trang Tử khá “độc” khi đem “vạn thế sư biểu” Khổng Tử của Nho giáo ra đùa cợt. Hình ảnh uy nghi, khẳng khái “uy vũ bất năng khuất” đâu chẳng thấy mà chỉ còn là hình ảnh lão già tầm thường run như cầy sấy trước hành động hung cuồng bạo ngược của Đạo Chích – kẻ bị cho là “đào tường khoét vách, lùa ngựa bò, bắt cóc vợ và con gái người ta, tham lợi tới quên cả thân thích, không đoái hoài tới cha mẹ anh em, không cúng giỗ tổ tiên”. Đạo Chích vừa mới cất vài lời “cường ngôn” phản bác mà “Khổng Tử vái hai vái rồi vội vàng chạy ra cửa, lên xe ba lần mới nắm được dây cương vì hoảng hốt, mắt không thấy rõ, mặt tái như tro tàn, ngồi dựa vào cái đòn ở trước xe, đầu cuối xuống, thở không ra hơi”. Trang Tử khéo giễu quá đi thôi! Đạo giáo cùng Nho giáo Tàu cũng “chỏi” nhau ra trò đó chứ!

Nhắc đến Trang Tử, tôi chợt nhớ hai câu thơ của Vũ Hoàng Chương:

“Học làm Trang Tử thiêu cơ nghiệp
Khúc Cổ bồn ca gõ hát chơi”

Qua hai câu thơ ấy, hình tượng Trang Tử có vẻ tiêu sái thoát tục, tôi tò mò tìm đọc nội dung khúc Cổ Bồn Ca xem thế nào. Hoá ra Trang Tử thiêu cơ nghiệp và gõ bồn hát, cảm khái vì lẽ vô thường “vợ mình thằng khác xài, con mình thằng khác sai”... Sao bi hài thế nhỉ !

CỔ BỒN CA

Kham ta phù thế sự
Hữu như hoa khai tạ
Thê tử ngã tất mai
Ngã tử thê tất giá.

Ngã nhược tiên tử thời
Nhất trường đại tiếu thoại
Điền bị tha nhân canh
Mã bị tha nhân khóa
Thê bị tha nhân luyến
Tử bị tha nhân mạ.

Dĩ tử đổng thường tình
Tương khan lệ bất hạ
Thế nhân tiếu ngã bất bi thương
Ngã tiếu thế nhân không đoạn trường
Thế sự nhược hoàn khốc đắc chuyển
Ngã diệc thương sầu lệ vạn hàng.

                                  TRANG TỬ

BÀI HÁT CỔ BỒN

Ôi cuộc đời nổi trôi
Khác nào hoa nở, rụng
Vợ chết trước ta lo mai táng
Ta chết vợ sang ngang.

Ví bằng ta chết trước
Thật một trường đại hài hước
Ruộng ta người sẽ cày
Ngựa ta người sẽ cỡi
Vợ ta người sẽ thương
Con ta người mắng chửi.

Tình thế là như vậy
Nếu lệ ta chẳng rơi
Thế gian cười tớ vô tình
Tớ cười thiên hạ như bình lệ chan
Khóc mà đổi được tuần hoàn
Thì ta đã khóc muôn ngàn năm nay.

               VÕ TƯ NHƯỢNG dịch

Sự tích Trang Tử đốt nhà và gõ bồn hát, như sau:

Trang Tử đi chơi về, nằm lăn xuống phản kê giữa nhà, chân chữ ngũ, chàng cười, cười như nắc nẻ, cười mãi. Vợ Trang Tử thấy lạ, lấy ghế ngồi bên cạnh, hỏi chồng: “Mình có việc gì mà cười lắm thế?” Trang Tử ngồi nhỏm dậy, nói: “Thế này nhé...” rồi lại cười. Khi ngớt cơn cười, Trang Tử mới kể:
Trang Tử đi qua một cánh đồng chợt thấy một thiếu phụ xinh đẹp, đội khăn tang che mái tóc mượt mà, đang cố sức quạt lấy quạt để; trước mặt nàng là một nấm mồ mới đắp, cỏ chưa mọc, đất còn ẩm. Trang Tử lấy làm lạ; chàng dừng lại, chăm chú nhìn. Thiếu phụ xinh đẹp quạt rất nhiệt tình, mỏi tay này đổi tay khác. “Hay là nàng thương người dưới mồ nóng bức?”. Nghĩ vậy, chàng đánh liều hỏi: “Thưa quí nhân, nàng quạt mồ là nghĩa làm sao?”. Người đẹp ngước đôi mắt đen long lanh, đáp: “Ðây là mồ chồng thiếp. Trước khi chết, chồng thiếp trối trăn hai, ba lần: Phải đợi đất mồ chàng khô rồi hãy lấy chồng. Thiếp thương chồng, không quên lời căn dặn cuối cùng của chàng, nên thiếp quạt mồ chóng khô.” Trang Tử lại tỏ lòng thương xót người thiếu phụ biết làm theo lời trăn trối của chồng.
Nghe câu chuyện, vợ Trang Tử ngúng nguẩy đứng dậy, nhăn nhó: “Thế mà mình cười được. Ðàn bà đâu trơ trẽn đến thế”. Trang Tử thở dài: “Chỉ mong khi tôi chết, mình quàn tôi một trăm ngày rồi hãy chôn, sau đó hãy tái giá nhé!”. Vợ Trang Tử trách móc chồng vì đã nói gỡ, nàng đoan chắc nếu Trang Tử có mệnh hệ nào, thì nàng nhất quyết cư tang, suốt đời thủ tiết thờ chồng không tái giá. Không bao lâu, Trang Tử bỗng nhiên đột tử. Thi hài Trang Tử liệm trong quan tài, quàn trong nhà. Ðược dăm hôm, một chàng trai trẻ đẹp, hào hoa đến. Chàng thư sinh nhận mình là học trò thầy Trang Tử, đến phúng viếng thầy. Chàng nói: “Nhà tôi ở mãi chân núi, xin cô cho ở lại mấy hôm”. Vợ Trang Tử vừa thấy chàng, đã đem lòng vấn vương; nàng vội nhận lời. Từ đêm ấy, hai bên quấn quít nhau, không rời nhau được. Bỗng một hôm, chàng ôm bụng lăn lộn trên giường, mồ hôi nhễ nhại. Chàng trai kêu đau, rên la thảm thiết. Chàng ú ớ nói chàng khó qua khỏi. Người thiếu phụ hoảng hốt. Chàng bảo vốn chàng bị bệnh đau bụng kinh niên, chỉ một thứ thuốc duy nhất cứu được chàng: lấy sọ người mới chết, mài ra, uống ngụm nước nóng, thế là khỏi. Vợ Trang Tử, ngay đêm ấy, lấy cái vồ đập săng đựng xác chồng, định lấy cái sọ chồng chữa bệnh cho người tình. “Thịch, thịch, thịch” vồ nện mấy nhát, nắp săng bật tung. Trang Tử nhổm dậy hỏi “nàng làm gì vậy ?” Sau cơn hoảng sợ, vợ Trang Tử trấn tĩnh lại, nàng đáp: “thiếp nghe trong quan tài có tiếng động, nên nghĩ rằng chàng tỉnh lại nên cậy quan tài ra”.
Trang Tử bước ra khỏi quan tài, cùng vợ trở về phòng. Vợ Trang Tử bước đi mà lòng lo lắng… Về đến phòng, không thấy thư sinh đâu cả. Đang bần thần thì Trang Tử bảo: “Ta gọi người tình của nàng đến nhé”. Ngọn đèn trong phòng chao chao và mờ dần, Trang Tử đột nhiên biến mất và chàng thư sinh trẻ đẹp hiện ra…Vợ Trang Tử biết chồng dùng phép thuật để thử lòng vợ. Nàng xấu hổ quá, nàng ốm, vài hôm sau nàng chết. Nàng chết, Trang Tử nực cười cho đời người. Chàng lấy cái chậu, vừa gõ vừa ca bài Cổ bồn, bài ca vừa như cười, cái cười hềnh hệch, vừa như khóc, cái khóc xót xa cho thân phận con người: “Ôi thói đời! Nghĩ mà đau lòng...! Nhìn nhau lệ chẳng rơi lã chã...! Ta cười cuộc đời lắm nỗi đau thương...”.
(Phỏng theo Kim cổ kỳ quan của Ủng Bảo lão nhân)

Từ câu chuyện trên, dân gian Việt Nam có câu: Quạt mồ còn hơn bổ quan tài.

Hay là:

Thương thay cho kẻ quạt mồ
Ghét thay cho kẻ cầm vồ bửa săng.

Thiên Chí Lạc, Nam Hoa Kinh viết :

“Vợ Trang Tử mất, Huệ Thi đến điếu, thấy Trang Tử ngồi duỗi xoạc hai chân vừa gõ bồn vừa ca. Huệ Tử hỏi:
- Cùng người ở tới già, có con lớn mà người chết lại không khóc, cũng là đã quá lắm rồi ! Lại còn vỗ bồn mà ca, không quá lắm sao?
Trang Tử đáp:
- Không ! Lúc nàng mới chết, tôi sao chẳng động lòng, nhưng nghĩ lại, hồi trước nàng vốn không sinh, chẳng những không sinh mà đó lại vốn không hình, chẳng những không hình mà đó vốn là không khí. Đó chẳng qua là tạp chất trong hư không biến ra mà có khí, khí biến ra mà có hình, hình biến ra mà có sinh, rồi lại biến ra nữa mà có tử. Khí, hình, sinh, tử, có khác nào xuân, hạ, thu, đông, bốn mùa vận hành. Vả lại, người ta đã nghỉ yên nơi Cự thất (nhà Lớn), mà tôi còn cứ than khóc, chẳng là tự tôi không thông Mệnh ư, nên tôi không khóc.”

Đọc sự tích “Trang Tử gõ bồn ca”, lòng tôi bâng khuâng cảm khái lẽ vô thường của đời người. Trang Tử là người đạt đạo mới có thái độ khác thường với nỗi bi thương chính mình. Có đâu như nhà thơ Nguyễn Bính hễ tơ lòng chạm phím là ai oán ngân nga. Khi người yêu “sang ngang”, nhà thơ Nguyễn Bính đã tỏ ra rất ngỡ ngàng:

Có người đêm ấy khoe chồng mới:
“Em chửa yêu ai, mới có mình”

Có người trong gió rét chiều đông
Chăm chỉ đan cho trọn áo chồng
Còn bảo: “Đường len đan vụng quá!
Lần đầu đan áo kiểu đàn ông”

Có lẽ khi đang ngây ngất men nồng tình ái, người yêu Nguyễn Bính cũng thầm thỉ bên tai chàng “Em chửa yêu ai, mới có mình”. Nhà thơ cay đắng thốt lên:

Vâng chính là cô chửa yêu ai
Lần đầu đan áo kiểu con trai
Tôi về thu lá ba đông lại
Đốt hết cho cô khỏi thẹn lời

Câu thơ “Tôi về thu lá ba đông lại” có dị bản là “Tôi về thu cả ba đông lại”. Nhưng theo như một số bạn thơ của Nguyễn Bính, “lá” là từ ngữ dùng trong sáng tác ban đầu, nhà thơ Nguyễn Bính chỉnh sửa lại là“cả” trong các lần tái bản sau. “Lá” trong câu thơ trên là lá thư, phong thư. Nguyễn Bính đã nâng niu cất giữ những những lá thư tình trong 3 năm liền, thế mà “người ta” bỗng phút chốc thản nhiên coi như không. Hận tình đời đen bạc, nhà thơ uất nghẹn muốn đem đốt hết cho người yêu cũ thanh thản bên chồng. Nhưng, “người ta” quên chứ Nguyễn Bính có quên đâu. Nguyễn Bính chưa thấu lẽ vô thường trong tình ái nên vẫn u uất:

Tất cả mùa đông đan áo len
Cho người cho tất cả người quen
Còn tôi người lạ, tôi người lạ,
Có cũng nên mà không cũng nên.
            (“Vâng” - Nguyễn Bính)

Là nhà thơ tiền chiến đồng thời với Nguyễn Bính, nhưng Xuân Diệu tỏ ra khác hẳn và tỉnh táo hơn nhiều, ông đã thẳng thắn viết:

         Ai nói trước lòng anh không phản trắc
         Mà lòng em sao lại chắc trơ trơ
                   (“Giục giã” - Xuân Diệu)

Nhà thơ Xuân Diệu với những bài thơ tình lãng mạn được giới trẻ yêu thích một thời, có câu thơ mang chút ít triết lý:

Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt                            
                 (“Giục giã” - Xuân Diệu)

Mới đọc, ta thấy hơi khó hiểu, nhưng đọc đoạn thơ sau thì nhà thơ đã trình bày rõ ràng:

Hoa nở để mà tàn;
Trăng tròn để mà khuyết;
Bèo hợp để chia tan;
Người gần để ly biệt.
       (“Hoa nở để mà tàn” - Xuân Diệu)

Đúng thế “Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt”, chỉ vì có họp mặt mới có chia tay, “mầm ly biệt” đã nhú lên ngay từ khi mới quen nhau. Hoa nở rồi tàn, trăng tròn rồi khuyết đó là lẽ vô thường nhưng cũng là quy luật của sự vật. Nhưng, dù là quy luật thì khó có ai không bùi ngùi trong cảnh  chia tay:

Hoa thu không nắng cũng phai màu;
Trên mặt người kia in nét đau.
(“Hoa nở để mà tàn” - Xuân Diệu)

“Ôi cảnh biệt ly sao mà buồn vậy”
            (Quốc văn giáo khoa thư)

Gặp gỡ để rồi ngậm ngùi ly biệt. Xa nhau lại hoài niệm, nhớ nhung, nuối tiếc những tháng ngày mặn nồng dịu ấm hương tình:

Thôi hết rồi! Còn chi nữa đâu em!
Thôi hết rồi, gió gác với trăng thềm.
Với sương lá rụng trên đầu gần gũi,
Thôi đã hết hờn ghen và giận tủi.
(Được giận hờn nhau! Sung sướng bao nhiêu!)
Anh một mình, nghe tất cả buổi chiều
Vào chậm chậm ở trong hồn hiu quạnh.

Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh.
Anh nhớ em, anh nhớ lắm! Em ơi!
Anh nhớ anh của ngày tháng xa khơi,
Nhớ đôi môi đang cười ở phương trời.
Nhớ đôi mắt đang nhìn anh đăm đắm!
Gió bao lần từng trận gió thương đi,
- Mà kỷ niệm, ôi, còn gọi ta chi...

        (“Tương tư chiều” - Xuân Diệu)

Lẽ vô thường trong thơ Trang Tử, Nguyễn Bính, Xuân Diệu gieo nỗi man mác bâng khuâng trong lòng tôi mấy hôm nay. Sáng nay đi lễ, nghe bài giảng của cha xứ, trong đó có câu:

Vanitas vanitatum et omnia vanitas

Hư không của sự hư không - thế sự hư không!
                                          (Truyền đạo 1:2-3)
Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân…
                                                           (Gv 1,2)
Mọi điều đó là sự hư không theo luồng gió thổi…
                                           (Truyền-đạo 2:1-26)

Sách Truyền đạo của Solomon (Kinh Thánh, Cựu Ước) ghi:“Hư không của sự hư không, hư không của sự hư không, thảy đều hư không. Các việc lao khổ loài người làm ra dưới mặt trời, thì được ích lợi chi?”

Thế sự phù vân và cái việc “làm chi cho mệt một đời” mà Kinh Thánh nêu ở trên có nét tương đồng với tư tưởng vô vi của Lão Trang trong thơ của Lý Bạch và Đỗ Phủ, những đại thi hào thời Thịnh Đường:

         Thế sự nhược đại mộng
         Hồ vi lao kỳ sinh

         Ở đời như mộng lớn
         Làm chi cho nhọc mình!
         (“Xuân nhật tuý khởi ngôn chí” – Lý Bạch)

         Thiên thượng phù vân như bạch y
         Tu tư hốt biến vi thương cẩu.

         “Trên trời mây nổi như áo trắng
         Phút chốc biến thành chó xanh”
                    (“Khả Thán” – Đỗ Phủ)

Thay đổi là nguyên lý của Vạn vật và Vũ trụ. Vì thế cách đây trên 2500 năm Đức Phật cũng đã nói đến Vô Thường.

Sự tương đồng giữa Kinh Thánh Thiên Chúa giáo với tư tưởng Phật giáo và tư tưởng Lão Trang thật thú vị ! Ô hay, tưởng rằng chỉ có Lão Trang mới nói đến phù vân, vô thường, vô vi trong đời sống và nguồn khởi dẫn của Đạo. Phật giáo mới nói đến hư vô, sắc không; giờ lại nghe Thiên Chúa giáo nhắc đến hư không, phù vân. Cuộc đời đúng là “bức tranh vân cẩu”, quả vô thường thật !

                                                                       La Thụy
                                                                      7/8/2019

READ MORE - LẼ VÔ THƯỜNG TRONG THƠ TRANG TỬ, NGUYỄN BÍNH, XUÂN DIỆU… - La Thụy

LÀNG CỔ LỘC YÊN VÀ NHỮNG NGƯỜI THỔI HỒN VÀO ĐÁ | Khê Giang

Sông Tiên. Ảnh: Khê Giang


LÀNG CỔ LỘC YÊN 
VÀ NHỮNG NGƯỜI THỔI HỒN VÀO ĐÁ
Khê Giang

Chúng tôi đặt chân đến Lộc Yên vào một ngày trời nắng đẹp, mắt nắng vàng ươm đổ từng vạt trứng xuống đường làng, hàng cau hiền hòa như tần ngần đứng nhìn du khách, vài thửa ruộng bậc thang đang nằm chờ gieo sạ, con mương uốn mình duyên dáng tinh nghịch ngâm mình giữa dòng nước mát sau một mùa khô hạn, vài mạch nước nhỏ từ lòng núi ngập ngừng, mon men qua từng phiến đá rụt rè chảy xuống lòng ao. Chúng tôi bước đi trên những con đường lát đá quanh co, từng phiến đá đan tay nhau trườn vào thôn xóm. Men qua từng con ngõ hẹp, màu cổ tích hiện dần trên từng vách đá, cảm giác con đường như đang cựa quậy, dụi mắt tĩnh dậy sau một giấc ngủ dài.
Hướng dẫn viên của đoàn là một phụ nữ trẻ đẹp duyên dáng, công tác tại ngành văn hóa của địa phương. Ngoài kiến thức uyên thâm về văn hóa làng cổ. Cô còn là nhà thơ, người có giọng hát mênh mang, dễ mềm lòng du khách. Nghe những dòng chảy sóng sánh về quê hương qua lời giới thiệu say sưa của người hướng dẫn viên, hay nhìn cái cách người dân biểu lộ sự chân tình, quý mến đối với cô, chúng tôi dễ nhận ra rằng: trong cái thâm nghiêm,quyến rũ, trong cái cựa mình thức giấc của ngôi làng, luôn có bóng dáng, hơi thở của người phụ nữ duyên dáng tài hoa này.

Không như Phước Tích (Thừa Thiên – Huế), hay Đường Lâm (Hà Nội), được cư trú phẳng phiu giữa chốn bình nguyên. Lộc An tọa lạc giữa một vùng bán sơn địa, chính cái hình thái chênh vênh này đã tạo cho ngôi làng cổ có cái chất đặc trưng. Vùng đất này đã khôn khéo khi chọn địa hình ruộng bậc thang ở Sa Pa làm nền phong thủy, chọn cao nguyên đá Đồng Văn, Hà Giang làm cổng rào, chọn Phù Lưu (quê hương nhà văn Kim Lân) làm con ngõ, chọn kiến trúc cung đình Huế làm nhà cửa và chọn đất phương nam để tạo dựng những ngôi vườn…Không dừng lại ở đó, với sự say mê lao động nghệ thuật, họ còn biết chắt lọc, sáng tạo nâng tầm các tác phẩm, các công trình lên một tầm cao mới, đẹp hơn, nhiều sắc thái hơn. Người Lộc Yên không chỉ làm đường để đi hay làm bờ rào để giữ đất mà họ còn biết thổi hồn vào chúng, với nghệ thuật sắp đặt có chủ ý, chủ đề: từ đó mỗi lối đi, mỗi bậc thềm, con ngõ đều trở thành một tác phẩm nghệ thuật đặc sắc, sống động và lung linh.
Những ai đã đặt chân qua và ngưỡng mộ những con đường lát đá của ngôi làng cổ Birury nổi tiếng tại Vương quốc Anh hay có dịp ngắm nhìn những con ngõ xếp đá của làng Chefchaouen bên bờ Địa Trung Hải (một trong bảy làng cổ đẹp nhất thế giới) chắc hẳn cũng phải trầm trồ khi có dịp sóng bước trên những con ngõ hút hồn tại làng cổ Lộc Yên.
Ngoài sắc thái mượt mà của ruộng vườn, đường sá, Lộc Yên còn nỗi tiếng với những ngôi nhà cổ có tuổi đời hàng trăm năm. Những ngôi nhà rường này thường nằm ở độ cao khoảng 5- 10m so với nền đường, với thế dưa lưng vào đồi núi, mặt trông ra thung lũng. Xung quanh được bao bọc bởi những hàng cau cổ thụ, những cây Bòn bon già cỗi, những cây bưởi xanh um trỉu quả.

Chính diện ngôi nhà. 

Không giống với người láng giềng Hội An, nhà cổ tại Lộc yên hoàn toàn khác xa với lối kiến trúc tại phố cổ, nó hao hao giống nhà rường ở Thừa Thiên, Quảng Trị: cũng kèo cong Trính lận, băng đầu vồ, trừ một số đặc điểm: Nhà có dáng vóc cao hơn; phần hậu được thiết kế dạng sàn lững (có tác dụng thông khí). Giữa mỗi băng có một con đội được chạm trổ cách điệu hình trái lựu nối với điểm gặp nhau của hai thanh kèo trông rất ấn tượng. Trên từng ô cửa chính có những lá sách di động, rất tiện dụng khi dễ dàng mở ra vào mùa hè và đóng kín khi đến mùa đông.

Nhà rường Lộc Yên (bên tả)

Những ngôi nhà rường ở đây đa phần được những nghệ nhân làng mộc Văn Hà thi công, đây là một trong ba làng mộc nổi tiếng (Trà Bồng, Mỹ Xuyên, Văn Hà) được triều đình nhà Nguyễn tuyển dụng nghệ nhân phục vụ trong các công trình xây dựng kinh thành Huế. Một chi tiết làm cho ngôi nhà rường ở đây nổi tiếng hơn, đó là có một vị nguyên thủ quốc gia, gốc gác tại Huế, đã hai lần cho người lặn lội vào Lộc Yên để tìm mua một ngôi nhà với số tiền khủng, nhưng cả hai lần chủ nhân ngôi nhà cổ tuyệt đẹp đều lắc đầu... Câu chuyện hết sức thú vị, ngoài thông điệp mang đến cho người nghe về cái đẹp trong ý thức gìn giữ, bảo tồn di sản của cha ông, nó còn khẳng định giá trị, chất lượng về nghệ thuật và tính thẩm mỹ của các ngôi nhà cổ tại đây.

Điều đáng nói, không riêng gì nhà cổ, vườn cổ mà những ngôi nhà mới mọc lên cũng được các chủ nhân trẻ khi thiết kế vẫn giữ nguyên lối kiến trúc của cha ông xưa. Vẫn những tường rào được xếp đặt mềm mại, rong rêu; vẫn những con đường đá được chắt chiu, gài chèn một cách tỉ mỹ, những hàng cây được sắp đặt có hồn. Ý thức gìn giữ, tôn tạo cái đẹp luôn hiện hữu trong lòng mỗi người dân nơi đây, chính sự tiếp sức của những công dân thời @, trong đó có những người cán bộ đúng nghĩa như hướng dẫn viên Nguyễn Kim Thiện, với tình yêu quê hương, họ đã tiếp tục vẽ nên nét đẹp truyền thống của cha ông và làm bịn rịn bất cứ ai khi đã một lần đặt chân đến xứ sở nầy.

Khê Giang

READ MORE - LÀNG CỔ LỘC YÊN VÀ NHỮNG NGƯỜI THỔI HỒN VÀO ĐÁ | Khê Giang