Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Wednesday, June 26, 2019

TẬN THẾ - Thơ Trần Mai Ngân


                         Nhà thơ Trần Mai Ngân


  TẬN THẾ

   Chúng tôi không còn nói yêu nhau nữa
   Ngày sắp tận thế rồi
   Mảnh trăng đau mồ côi
   Ngôi sao đã đổi ngôi...

   Chúng tôi không còn nói yêu nhau nữa
   Sáng nay ngày mục rữa
   Câu chúc cũng vô hồn
   Thuộc lòng như điệp khúc

   Chúng tôi không còn chi tha thiết nữa
   Thời gian lạnh trôi qua
   Năm tháng cứ nhạt nhoà
   Môi cười vô tri quá!

   Chúng tôi đã thật lạnh lùng với nhau
   Cành cây ngọn cỏ đau
   Tháng Sáu mưa vùi khóc
   Thuở ngọt ngào qua mau!

   Và có phải chúng ta đang xa nhau...
   Xa nhau !

                             Trần Mai Ngân
                                 20-6-2018

READ MORE - TẬN THẾ - Thơ Trần Mai Ngân

LIỀN ANH LIỀN CHỊ - Thơ Đặng Xuân Xuyến



                Nhà thơ Đặng Xuân Xuyến



LIỀN ANH LIỀN CHỊ

Ơ này lúng liếng
Ơ này lả lơi
Nhịp phách chơi vơi
Chênh vênh lời hát               
Ờ thì gió mát
Ờ thì trăng thanh
Ngơ ngẩn liền anh
Ngả nghiêng liền chị

Gió luồn mộng m
Mớ bảy mớ ba
Yếm thắm nhú ho
Đêm trăng rờ rỡ

Người ơi người ở
Người ở người ơi
Nhịp phách buông lơi
Tính tang tang tính.

Hà Nội, 07 tháng 10 năm 2014
ĐẶNG XUÂN XUYẾN

(Đã in trong tập CƯỠNG XUÂN)

READ MORE - LIỀN ANH LIỀN CHỊ - Thơ Đặng Xuân Xuyến

ĐỌC THƠ NGẮN CỦA LỆ THỦY - Châu Thạch



                     Nhà thơ Lệ Thủy



ĐỌC THƠ NGẮN CỦA LỆ THỦY
                                       Châu Thạch

Lệ Thủy không phải là người chuyên làm thơ. Tôi chỉ hân hạnh gặp cô một lần khi cô chiêu đãi cà phê vợ chồng nhà thơ Mạc Uyên Linh từ Sài Gòn ra thăm Đà Nẵng. Qua chuyện trò, tôi nhận thấy Lệ Thủy là mọt người yêu thơ thật trọng trắng. Cô quý mến, tôn trọng và tìm đến những nhà thơ vừa già, vừa xấu, vứa không có tên trong các hội đoàn hiện nay như chúng tôi. Về nhà tôi mở trang facebook của lệ Thủy mà tôi vừa kết bạn. Hóa ra Lệ Thủy cũng có làm thơ. Thơ đó chỉ là nhưng dòng ngắn gọn, thành vần do cảm  hứng bất ngờ đến trong phút giây. Tuy thế, chính nhờ vậy mà tiếng thơ của Lệ Thủy cho tôi nhiều cảm xúc, thú vị như được ăn một thứ quả nhỏ, thơm, vừa hái ngay từ trên cây xuống.

Nói thì phải có sách và mách thì phải có chứng. Vậy nên hãy đọc một vài câu thơ liên quan đến thành phố Đà Nẵng mà Lệ Thủy viết gần đây nhất:

Ai nhuộm nỗi buồn cho vạt nắng chiều nay...

Để khóe mắt cay... Ngỡ chiều mưa đổ.
Thành phố lớn... Mà lòng người thì nhỏ..
Chẳng có nơi nào. Làm điểm tựa... dừng chân.
                                             (Đà nẵng và Tôi)

Đây là những câu thơ bi quan nhưng sự bi quan nầy làm thi vị sự cô đơn trong tâm hồn tác giả. Những tứ thơ như vạt nắng bị nhuộm nỗi buồn, mắt cay nên ngỡ chiều mưa rất đầy ý nghĩa. Những ý thơ như thành phố thì lớn mà lòng người thì nhỏ, đến nổi tìm không có một điểm tựa nào, đọc thấy cả một sự trách móc rất lỡn nhưng lời nói ra êm ái, nhỏ nhẹ, dễ thương và làm se lòng ta thật sự.
Lệ Thủy viết về Đà Nẵng thì vậy, còn viết về giấc mộng của mình thì sao? Thì nỗi sầu xen trong cái đẹp như một bức tranh huyển hoặc, bao la và hấp dẫn:


MỘNG

Rồi mai.. Ta sẽ ngủ
Xõa tóc mộng.. Vai trần
Lạc bồng trong. Mơ ảo
Trôi... giữa chốn phù vân

Nửa mái tóc... ái ân
Rụng rơi phiền… Trên gối
Như nghe lời… Trăn trối
Òa khóc giữa… Hư vô…

Hãy tưởng tượng đi. “Rồi mai.. ta sẽ ngủ”. Ngủ ở đây có thể là nghỉ ngơi, cũng có thể là sự chết đời đời. Dầu ngủ như thế nào thì “Xỏa tóc mộng…Vai trần” cho ta một hình ảnh tuyệt đẹp. Thế rồi đọc tiếp nhũng câu thơ “Lạc bồng trong. Mơ ảo/ Trôi.. giữa chốn phù vân/ Nửa mái tóc…ái ân/ Rụng rơi phiền..Trên gối” cho ta chiêm nghiệm được tất cả sự vô thường của một cơn mộng ngắn trong cõi đời nầy hay một cơn mộng triền miên trong cõi chết. Cuối cùng hai câu thơ “Như nghe lời.. Trăn trối/ Òa khóc giữa.. Hư vô…” đã đem linh hồn buồn, hòa nhập vô vi trong cõi đất trời. Đọc hai câu thơ nầy, ta liên tưởng đến trăng sao, suối reo, sông chảy, gió vi vu đều mang sự rung động của nỗi buồn. Sự rung động đó chi tiết đến nổi sợi tóc ái ân rụng trên gối cũng không mất đi. Tất cả điều ấy sẽ chìm trong hư vô đúng như câu “Sắc tức thị không, không tức thị sắc” mà nhà Phật đã nói, hay đúng như câu “Hư vô, hư vô, tất cả thành hư vô” mà Kinh Thánh đã nói.
Bài thơ ngắn thôi những ý không ngắn chút nào. Bài thơ nhỏ thôi nhưng tư tưởng không nhỏ chút nào. Cọng vào đó  hình ảnh trong thơ vừa thật vừa ảo như bàn tay của họa sĩ tài hoa nào đó vẽ nên.
Bây giờ hãy đọc một bài thơ tả cảnh của Lệ Thụy nghe chơi:

CÒN LẠI...

Hương lùa theo gió mới vừa qua
Hồn nhẹ thảo thơm tựa có quà
Bên thềm lá úa vừa rơi nhẹ
Chợt nhớ tình xưa… Đã đi xa

Ngày dài nắng tắt giọt phôi pha
Chiều hoang loang lỗ nhánh si già...
Khẽ thoáng gió say... Loài hoa cỏ...
Vừa đủ lòng ai… Những thiết tha...

“Hương lùa theo gió” mà tưởng như một món quà thơm đất trời vừa đem đến tặng. Chiếc lá rơi nhẹ mà làm cho nhớ đến người tình xưa đã đi xa. Thế rồi trong giọt nắng phôi pha, hoàng hôn đổ trên cây si già, gió như say hương mùi hoa cỏ. Tất cả vừa đủ cho Lệ Thủy thấy lòng mình thiết tha.
Có thể nói đây là một bài thơ tả cảnh sinh tình tuyệt vời, vừa ngắn gọn vừa đủ ý và vừa sinh động.
Đọc hai khổ thơ nầy không ai không cảm nhận được một khung cảnh hiền hòa, yên tịnh, thơm ngát, nên thơ, và có một tâm hồn bình dị ngồi nơi đó. Trong “giọt nắng tắt phôi pha” đó, đáng ra Lệ Thủy phải khóc cho chiều tàn, phải than đêm sắp đên, phải nguyền rủa đời người qua đi chóng vánh như trăm ngàn bài thơ khác. Nhưng không, Lệ Thụy đã biến sự phôi pha thành màu, thành hương cho cuộc sống trở nên thi vị vô cùng. Những cụm từ “Hồn nhẹ thảo thơm”, “nhánh si già”, “thoáng gió say” “loài hoa cỏ’, “Vừa đủ lòng ai” chữ nghĩa không lạ, nhưng lạ khi tác giả đặt vào dòng thơ của mình hài hòa, làm cho không gian trong thơ đày hương sắc, và tâm hồn trong thơ vô cùng êm dịu.
Hãy đọc thêm một vài khổ thơ không đề của Lệ Thủy.
Lệ Thủy viết về lụa và mắt:  

Ai cứ dịu dàng trong lụa mỏng
Tỏa giùm ta... Một chút hương thầm ...
Hôm nào nhớ lắm... Ta về mộng....
Gặp nét hồn nhiên... Trong măt trong…

Lê Thủy viết về đi lang thang:

a một mình lang thang.
Như để nhớ..
Lối đi này.
Xưa có bóng người qua

Lệ Thủy viết về mùa xuân đến:

Đoá Hồng nào hiện hữu ở bờ môi
Em sẽ đẹp... Rang ngời khi xuân đến
Con thuyền cô đơn sẽ xa rời Bến
Em.. chẳng còn... Lạnh lẽo... Lúc đầu Đông

Và Lệ Thủy viết về đầu đông:

Tí ta tí tách...
Róc rách suối sâu…
Chiều nhat nắng sầu
Mưa ngâu nhẹ hạt…

Ngân nga điệu hát
Ngào ngạt Hương yêu
Chiều rồi ngõ vắng đìu hiu
Mình ai... Lặng lẽ cô liêu chốn này

Đó là thơ Lệ Thủy, một tác giả rất nghiệp dư và vô cùng nghiệp dư. Nhưng ái dám nói đó là rác trên facebook nào. Tôi đọc lệ Thủy và tôi cảm xúc viết ngay trong buổi trưa. Không thể để qua ngày khác, vì tôi không muốn quên đi cái gian phòng văn chương đầy vẻ đẹp và vẻ sáng mà tôi vừa khám phá hôm nay. Cảm ơn Lệ Thủy đã mời tôi ly cà phê ngon và cho tôi thưởng thức những ly cà phê có, trà có, nước hoa quả có bằng những vần thơ mà tôi đã đọc trên dòng thời gian facebook của bạn, một người bạn bằng tuổi con tôi thôi.

                                                                       Châu Thạch

READ MORE - ĐỌC THƠ NGẮN CỦA LỆ THỦY - Châu Thạch

ĐÊM LY BIỆT - Thơ Nguyên Lạc





ĐÊM LY BIỆT

Còn đây. một chút muộn màng
Em đem dâng hết. kẻo. tang thương về
Đốt tình. cháy trọn đam mê
Rồi quên đi nhé. lời thề bền lâu!

Chắc gì có kiếp đời sau?
Thì thôi. ta hãy. cho nhau kiếp này!
Đôi môi. đẫm ướt. em đây
Thân cong dâng hiến. hãy. say mê tình!
Mai này. đời đó phiêu linh
Giữ riêng. anh nhé. hương tình của em!

Tiếng chim sớm. hót bên thềm
Báo người. ngày đến. tiếng buồn từ ly
Biệt ly! người sẽ ra đi
Anh ơi vĩnh biệt!
Chắc chi tương phùng?!?

               Nguyên Lạc

READ MORE - ĐÊM LY BIỆT - Thơ Nguyên Lạc

MỘNG, HOÀI NIỆM - Thơ Tịnh Đàm






MỘNG

Quẩn quanh chả biết đi đâu,
Vào trong quán “Gió”... Nghe câu hát buồn !
Ngỡ mình, như cánh chuồn chuồn
Mải bay tìm lại cội nguồn hóa thân !

Đất trời muôn nỗi phân vân
Biết ai tương ngộ cho lần hẹn duyên ?!
Đẹp sao giây phút đầu tiên ,
Ân tình dâng tặng còn nguyên mộng người.


HOÀI NIỆM
(Thân tặng bác Cơ - một thời để nhớ)

Gặp nhau ở tuổi hoàng hôn,
Bao niềm tâm sự giục hồn viễn phương.
Cuộc đời đã lắm phong sương,
Buồn, vui - Được, mất... Lẽ thường thế thôi !

Nhân tình ấm, lạnh... khôn nguôi
Cười qua nước mắt... Lỡ rồi phận duyên !
Đèn khuya hắt bóng ngoài hiên,
Thức trong hoài vọng... Đâu miền dung thân ?!?

                                                   TỊNH ĐÀM
                                                   (TP. HCM)

READ MORE - MỘNG, HOÀI NIỆM - Thơ Tịnh Đàm

BUỒNG CHUỐI Ủ HƯƠNG | Truyện ngắn | Lê Hứa Huyền Trân


Tác giả Lê Hứa Huyền Trân


BUỒNG CHUỐI Ủ HƯƠNG
Truyện ngắn
LÊ HỨA HUYỀN TRÂN



Tôi người thành phố, cuộc sống chốn thị thành như có một sức mạnh mãnh liệt cuốn tôi vào guồng quay của nó, hơn hai chục tuổi đầu mà dường như số lần về thăm quê với tôi như điều gì đó hiếm hoi lắm. Nhỏ thì học thêm, học hè, lên đại học thì bài vở càng chất chồng rồi vì học xa nên còn khó về nhà chứ đừng nói là có thể về mảnh đất quê hương tôi, bởi thế dẫu lúc nào cũng muốn về tìm một chút bình yên với tôi hầu như cũng rất khó. Lần này trong một chuyến thực tế tôi được dịp ghé tới nhà đứa bạn, cũng ở một miền quê xa xôi, hẻo lánh, dẫu không phải quê hương tôi nhưng những dư vị ngọt ngào mà nơi mang lại cho tôi cũng đầy chấn động và không khí thân thương của nó khiến tôi thực sự khó quên và ấm áp khi nhớ về.
Cuộc sống ở mảnh đất vùng cao có phần khắc nghiệt, khi mới tới tiết trời khá lạnh làm tôi cũng sụt sịt thôi rồi. Nhưng ấn tượng đầu tiên mà tôi có được đó là sự thân tình, cũng như bao chốn quê khác, người nơi đây đầu làng cuối xóm đều biết tới nhau, mỗi khi tôi và đứa bạn đi ngang qua tôi lại thấy những người chúng tôi gặp có khi là nơi hiên nhà, có khi là đi trên cộ bò ngang đường hỏi thăm bạn tôi, hỏi thăm cả tôi nữa rồi lại kháo nhau tôi mới tới chơi đừng bỡ ngỡ, lạ lẫm gì, Họ hỏi tôi nhiều thứ trong những bữa cơm với những cách hỏi đầy chân chất, mộc mạc, họ thường nói: "Cuộc sống ở đây không đầy đủ bằng thành phố, nhà cô/ chú chỉ có từng này thôi, cháu ăn đỡ,” nhưng khi tôi liếc nhìn mâm cơm họ chuẩn bị hay những điều kiện họ tạo ra cho tôi ở đây tôi luôn thấy tình cảm dâng trào. Những cảm xúc thật khó diễn tả bằng lời và nhiều dư vị để lại cho tôi khiến tôi không cách chi quên được, nhưng trong số đó có câu chuyện mà tôi nhớ mãi, đó là câu chuyện về cái buồng chuối ủ hương.
Ngày mới đến con bạn tôi nói với mẹ nó tôi thích ăn những món ăn dân dã, mà vốn dĩ tôi cũng là người sành ăn và cũng rất kén ăn nên hai bác ở nhà đặc biệt chú ý khi nấu tôi ăn. Ở quê cứ mỗi khi có khách thường giết gà, tôi tới được bác làm nguyên con gà mà đãi, người ở quê hay thế, tôi thích thú ngồi bữa ăn mà thấm đượm. Cái xúc cảm của việc mỗi khi tôi ăn một chén cơm xong là hai bác lại thúc hối cái Thu (tên con bạn tôi) bới cơm thêm cho tôi một cách đầy nhiệt tình thật khó diễn tả. Bác Triều còn nói: "Chú vội xem tivi quá không để ý bát cháu hết gì cả, cháu ăn thật tình nhé.” Nghe vậy, tôi lại phì cười, cách nói chuyện sao mà chân chất quá! Bác Tưởng thì lại bảo: "Cháu phải ăn nhiều vào, con gái ăn nhiều, khỏe, trắng răng dài tóc mới là lí tưởng, nhà bác thì không có gì đâu, khách đến thì mới giết con gà mà thôi, bình thường chỉ toàn rau với mắm không đấy.” Tôi lém lỉnh: "Bác ơi, cháu thích rau và mấy cái món có chuối đấy nhá bác.” Nghĩ vậy thôi nào ngờ lời tôi nói khiến bác nằm lòng. Lúc mới dọn cơm, tôi thấy lạ khi đồ ăn nào cũng có chuối trong đó, tôi thắc mắc hỏi cái Thu thì nó phì cười: "Mày quên mày nói với má tao mày thích chuối rồi à.” Tôi à lên một tiếng nhưng sao bỗng thấy lòng rưng rưng điều gì đó không rõ. Người ở quê có cái gì đó vô cùng chân chất, tình cảm của họ cũng giản dị như thế. Họ có thể không nói ra thành lời, cử chỉ của họ cũng có thể vô cùng đơn giản, nhiều khi người ta thấy họ rất xuề xòa nhưng chắc chắn những hành động họ làm đều chứa chan những tình cảm trong đó. Cảm xúc lúc nào cũng được diễn tả theo nhiều cách khác nhau, điều tôi cảm nhận được từ họ đó là những cảm xúc hết sức đơn giản nhưng ấm áp và rất “thật thà”. Lúc ăn miếng cơm tôi chực muốn khóc, nhưng không hiểu sao chững lại, nào là ốc xào bắp chuối, cái món tôi cực thích từ ngày ba hay làm tôi ăn hồi nhỏ mỗi mùa ốc rộ, hay canh chua chuối chát, cái món này bà tôi hay nấu với cá trầu, ở đây thường ăn kèm cá đuối mua từ dưới xuôi lên. Lúc gắp cho tôi miếng cá kèm chuối, bác Tưởng bảo: "Cái này là bác Triều đi xe hơn 1 tiếng xuống xuôi mua lên đó, trên núi thì làm gì có cá, nhưng mà phải nấu cá này mới đúng vị.” Tôi chỉ gật gù, đôi khi có những cảm xúc làm tôi nghèn nghẹn…
Tôi thích nhất món chè chuối mà bác nấu, phải nói tôi đặc biệt thích ăn những thứ gì kèm chuối theo. Ngày hôm sau khi bác đang cắt lát những miếng chuối cho nhỏ nấu chè tôi đã lăng xăng phụ. Cái Thu còn đùa: "Mày mà nói thích ăn cái gì là má nấu cái đó miết cho ngán luôn.” Bác Tưởng cốc đầu nó: "Thích ăn gì thì bác nấu, chứ không nói là bác bí đó.” Tôi lại cười: "Cháu thích ăn hết cả nồi chè bác ơi!” Bác cũng cười rung bần bật.
Tuy nhiều món có chuối nhưng một tuần ở đây cũng nhiều lần bác đổi món để tôi không chán. Buổi tối chúng tôi hay quây quần ở gian dưới, bác trai thì đi dạo với mấy người trong xóm, có khi lại kéo nhau về nhà nhậu rất thân tình. Tôi, cái Thu và mấy chị em gái trong nhà thì ngồi nghe những câu chuyện bác Tưởng kể nghe rất thú vị. Những lúc trăng lên thì chúng tôi lại đi soi ốc, mò cua, ban ngày thì chúng tôi chơi đánh đáo cùng mấy đứa nhóc rồi đi bắt cào cào, bắt cá ngựa cho chúng đá nhau. Tôi cũng hay đi theo cái Thu tới nhà mấy bác trong xóm chơi, họ vồn vã hỏi chuyện tôi như tôi là người đã gặp rất lâu rồi vậy. Ngày tôi về bác Tưởng đưa tôi ra tận xe, đợi xe tới, bác mới hì hục đưa lên xe cái bao gì ấy to lắm có mùi thơm rất ngọt rồi dăn dò anh phụ xe cái gì ấy. Tôi lên xe rồi vẫn thấy bác vẫy vẫy, về tới nhà mở ra, trong đó rất to, một buồng chuối vừa được bác chặt lúc đi làm rẫy lúc sáng, một buồng chuối tỏa hương thơm phức!


Tác giả  : Lê Hứa Huyền Trân
Hội viên Hội VHNT Tỉnh Bình Định


READ MORE - BUỒNG CHUỐI Ủ HƯƠNG | Truyện ngắn | Lê Hứa Huyền Trân

CÁI XÍCH ĐU KỲ QUÁI | Truyện ngắn | MacDung

   

                                  
Cái Xích Đu Kỳ Quái                                                             
Truyện ngắn
MacDumg     
                                              
  Ầu ơ… Gió đưa bụi chuối… ờ… ơ… sau hè…
  Anh theo vợ bé… ờ… ơ… Ầu ơ… Anh theo vợ bé bỏ bè con ơ… ớ… thơ… ơ…ơ…!
Điệu hát ru cứ xoáy vào tâm trí tôi vào mỗi đêm trăng sáng. Nó làm tôi day dứt không yên trong những đêm khó ngủ. Xung quanh phòng tôi có rất nhiều cây, cứ vào mùa đông, rơi vào những đêm rằm thì sương giăng giăng. Đứng trong cửa sổ nhìn ra ngoài chỉ thấy mờ mờ ảo ảo, như khói tủa mùa đốt đồng… Chính những lúc như thế, tiếng hát ru lại dập dìu, phảng phất đâu đây. Lời ru ai oán, thê lương làm rệu rã cả lòng người…
Tính ra tôi ở đây đã được năm năm. Một thời gian đủ dài để hiểu từng tấc đất, ngọn cỏ, quanh ngôi nhà cổ. Nhà  bà Tám có đến năm bậc chứ không phải là tam cấp, cất ba gian theo kiểu cổ xưa. Tôi nhớ khi còn ở thị xã với gia đình, những căn nhà kiểu này thường gọi là “nhà xưa”… Bởi trông nó xưa cũ và buồn ảm đạm…
Duyên số đẩy đưa tôi đến với căn nhà, bắt đầu từ lúc tốt nghiệp sư phạm. Ra trường, tôi nhận công tác tại vùng xa… Thế là biết nơi đây!... Còn một lý do khiến một cô giáo trẻ như tôi gắn bó với “nhà xưa”, là… dạy kèm thằng cháu nhỏ của bà chủ nhà. Thằng Tân vừa vào lớp bốn, tính hiếu động và thích chạy vòng quanh cái sân rộng lớn như sân bóng. Cây cối ở quê rất phong phú, nào: xoài, mít, đu đủ, mía… đều có cả. Vì vậy lúc vào hè, thời tiết oi ả, mới thấy giá trị đích thực của sự mát mẻ ở vùng đồng quê thanh vắng… Tất cả những việc này chung qui rất ưng ý, bởi tôi là mẫu người thích không gian và sự tĩnh lặng…
Lâu ngày nhẵn mặt là thế, mà tôi cố công tìm mãi vẫn không biết tiếng hát ru xuất phát từ đâu. Cứ mỗi dịp sáng trăng, nó lại cất lên ai oán. Có lúc tôi tưởng ở ngay cạnh nhà, lúc lại thấy nó dập dìu như xa xa vẳng đến. Quanh đây cũng có nhà ở, nhưng cách rất xa. Từ khoảng cách như thế mà tính, không thể nào lời ru bay đến đây được. Vả lại tôi đã tìm hiểu và biết những mái lá ấy không hề có trẻ nhỏ thì ru hát để làm gì…
Người già thường hay cưng cháu. Vì lẽ đó tôi được ở trong “nhà xưa” miễn phí, với một trách nhiệm phù hợp với bản thân là: “Dạy cho thằng Tân học hành mau tiến”… Ngoài giờ lên lớp và dạy thằng Tân, thời gian còn lại của tôi là ngồi bên chiếc bàn đặt cạnh khung cửa sổ. Soạn giáo án, viết thư nhà đều là đây. Và… nghe tiếng ru hời cũng từ đây…
Bà Tám đã ngoài bảy mươi. Con cháu đi làm xa, chỉ mỗi hai bà cháu và cô Hai phụ việc ăn uống, sống trong căn nhà rộng thênh thênh. Vì vậy khi tôi về đây cả nhà vui hẳn ra, ngay cả cô Hai thỉnh thoảng cũng cười khi thấy tôi đi dạy về - một điều hiếm thấy đối với thằng Tân hay quấy phá…
Tranh thủ những lúc rỗi việc, tôi hay bắt chuyện với cô Hai. Biết đâu khi giao lưu với người đàn bà lớn tuổi này, tôi lại thỏa mãn tính tò mò của mình về những lời ru ma quái…
Thế nhưng mọi việc lại làm tôi thất vọng, cô Hai bao giờ cũng lắc đầu khi tôi đề cập đến lời ru. Sắc mặt người đàn bà trở nên tái đi khi nghe tôi nói đến điệu ru văng vẳng vào đêm trăng sáng. Về phần bà Tám thì cương quyết hơn. Bao giờ bà cũng gạt phăng những nghi vấn của tôi với một câu gọn lỏn: “Cô giáo mải việc nên mệt mỏi nghe lầm đó thôi. Tôi sống hơn bảy mươi năm trong căn nhà này, đâu có nghe ai hát hò gì bao giờ…”
Câu nói của bà Tám làm tôi bán tín bán nghi, nghĩ trong nhà có việc nên giấu không cho ai biết, nửa còn lại cho rằng mình lo nghĩ vẩn vơ sinh ra mộng tưởng. Nhưng… tôi là người được xếp vào loại có cá tính mạnh mẽ, gặp khó khăn ít chịu lùi bước, sao lại tự gây ảo giác về lời ru. Từ ngày đó tôi mãi băn khoăn với những nghi vấn trong lòng nhưng không có lời giải đáp. Sau cùng quá mỏi mệt, tôi gạt chúng qua một bên rồi quên bẵng…
Học kỳ cuối của năm, tôi tất bật với việc ôn luyện cho học sinh nên sức khỏe sút hẳn. Có hôm về thăm nhà, ai nấy đều quở: “Lúc này sao con nhỏ ốm ra”. Nhưng tôi không còn thời gian lo cho bản thân, vì “đàn em thân yêu” cứ đeo bám cô giáo suốt buổi…
Ngày tết Đoan Ngọ, phụ huynh học sinh thi nhau mời cô giáo đến nhà dùng bữa. Rồi hội hè nối tiếp nhau đến ngày rằm lúc nào cũng không hay. Tôi có thói quen hay đi lễ chùa vào những ngày rằm. Hôm đó, sau khi vào chùa Hang thắp nhang, về đến nhà tôi liền lăn quay ra ngủ lúc nào không hay. Nửa đêm, tai tôi chợt nghe thấy tiếng ru quen thuộc nổi lên văng vẳng… Lần này cũng một giai điệu, nhưng lời ru đã biến đổi:                                               
“Gió đưa cây cải về trời…                                               
Rau răm ở lại chịu đời đắng cay…”                                               
“Má ơi đừng gả con xa…                                              
Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu…”
Đêm khuya thanh vắng, lời ru vang lên rất rõ không thể nhầm lẫn được. Có điều tiếng ru bị gió đu đưa, lúc xa lúc gần, nghe có lúc như mất hẳn, lúc lại nổi lên mồn một sát bên tai… 
Tôi lắng nghe xung quanh. Cả nhà đều đã ngủ. Hôm nay tôi nhất định phải khám phá cho được cái bí mật chất chứa lâu nay. Đẩy khẽ cánh cửa phòng, tôi bước lên nhà trên không một tiếng động. Nhấc thanh cài và hé nhẹ cái cánh cửa cũ kĩ, tôi lách người bước ra bãi cỏ trước sân nhà. Ánh trăng lung linh soi tỏ mấy cây hoàng hậu và hàng râm bụt được cắt tỉa gọn ghẽ. Từ chỗ này tôi có thể quan sát phía bên kia sân vườn, nhưng lại không nhìn được cái cửa sổ phòng mình. Bởi nó đã bị ngăn cách bởi một hàng chuối xanh um, lá đung đưa trong ánh trăng vằng vặc. Tôi bước khoảng mươi bước về phía trái của sân vườn nhưng chợt đổi ý định. “Bên đó nhìn đã thấy, không nên phí sức”. Vừa quay người tôi chợt phát hiện cánh cửa sổ phòng bà Tám vừa có ai dùng tay khép lại. “Ồ! Như vậy đâu phải chỉ có riêng tôi nghe thấy tiếng hát ru. Bà Tám cũng nghe, nhưng không muốn nhận đó thôi…”
Ánh mắt tôi chợt dừng lại nhìn vào cái xích đu nằm dưới cửa sổ phòng bà Tám và phòng tôi. Cái xích đu đang động đậy như có ai dùng tay đẩy. Không! Không phải đẩy, mà như có ai đang ngồi trên đó chơi đùa thì phải…
Tôi không muốn tin vào mắt mình, nhưng không thể phủ nhận sự chuyển động của cái xích đu. Phía trên chiếc xích đu có một vùng sương mờ ảo như bóng người đang ngồi, đầu hơi cúi xuống vỗ về một đứa trẻ vậy. Tôi hơi chùn bước khi phát hiện điều này. Người cảm thấy gai gai trong nỗi sợ thoáng qua. Rồi khi nhớ đến lời nói của bà Tám hôm nào, tôi quyết tâm trong lòng: “Nếu không làm rõ sự thật thì chính tôi mới là người đang hoang tưởng”. Khi cách chiếc xích đu khoảng ba bước chân tôi chợt dừng lại. Nhìn chiếc xích đu bất động tôi thấy hoang mang. Không lẽ tôi đang tự kỷ ám thị về cái xích đu? Có khi nào vừa tỉnh cơn ngái ngủ khiến tôi nhìn gà hóa cuốc! Chiếc xích đu nằm bất động, vùng sương trắng cũng không còn. Vậy lúc nãy tôi vừa thấy cái gì cơ chứ? Trong đầu tôi thoáng hiện ra ý nghĩ ma quái và bắt đầu sợ hãi… Nhưng lúc này sợ có ích gì? Bởi tôi đang đứng quá gần chiếc xích đu với ý nghĩ mới chui ra trong nỗi sợ sệt: “Đã sợ thì đừng đến. Đã đến rồi chạy cũng không kịp”. Và sự bình tĩnh vốn có ở tôi lại xuất hiện với dáng vẻ hùng dũng tạm bợ. Tay hơi run, tôi vịn vào hai sợi dây và bắt đầu ngồi lên cái xích đu… Trọng lượng cơ thể khiến chiếc xích đu chao đi rồi theo quán tính bắt đầu dao động…
Tôi nghĩ chiếc xích đu này họa hoằn chỉ có mỗi thằng Tân là hay ngồi. Bởi nơi đặt nó khuất sáng, xung quanh chỉ toàn cây lá nên ít ai lai vãng. Thế nhưng sự chuyển động của cái xích đu làm tôi kinh ngạc. Thay vì phải kêu cót két bởi lâu ngày ít ai sử dụng, nhưng ngược lại nó quay rất êm và không gây bất cứ tiếng động nào. Cơn sợ hãi lúc đầu vừa lắng xuống bỗng chợt bùng lên khi tôi có cảm giác ai đó vừa lắc đẩy chiếc xích đu. Lúc đầu cái lắc hơi nhè nhẹ, sau trở thành những cái dặt ngang mạnh mẽ như muốn hất tôi xuống đất. Hoảng sợ tôi định đứng lên thì trớn của nó đã đẩy tôi ngã lăn trên nền cỏ ẩm ướt. Cổ chân tôi đau điếng, khiến một chân phải bước lò cò đi tìm chiếc dép. Tôi đứng ngây người nhìn chiếc xích đu đầy vẻ sợ sệt xen lẫn ngạc nhiên. Trong đầu tôi hiện lên ý nghĩ về lời ru của một ai đó bên chiếc xích đu, trước lúc tôi mò đến phá bĩnh và… phải trả giá về sự tò mò của bản thân. Oan hồn ru con ư? Rõ ràng lời ru và chiếc xích đu có quan hệ với nhau, mặc dù lần đầu tiên tôi thấy nó chuyển động mà không có ai ngồi. Tiếng ru nhất định xuất phát từ đây! Và có nghĩa là, chiếc xích đu đã từng chuyển động mỗi khi lời ru cất lên. Điều đó chứng minh về những vòng quay êm ái khiến ai cũng phải ngạc nhiên khi ngồi lên nó, nhưng… không lâu…
Sáng hôm sau nhìn bước chân của tôi, cô Hai kinh ngạc hỏi:
- Chân cô giáo bị làm sao vậy?
Tôi nhìn cô Hai cười sượng sùng:
- Tôi ngồi xích đu, bất ý nên bị té trẹo chân ấy mà…
Không đợi tôi nói hết câu, cô Hai đã thảng thốt:
- Cô ngồi lên chiếc xích đu ư? Sao lại như thế… Ở nhà này ngoài thằng Tân ra, không ai…không ai…
- Không ai như thế nào hở cô Hai?
Lời cô Hai mang tính lảng tránh:
- Cô giáo không nên ra đấy làm gì… Cứ biết thế là đủ rồi!
Cuộc nói chuyện như vậy là kết thúc, để lại sự ấm ức trong tôi…
Cái chân trở nên đau đớn đến nỗi tôi phải bó ngải cứu hết mấy hôm. Sau đó tôi ra chợ và mua về một cái lục lạc của trẻ nhỏ hay chơi. Cả nhà không ai biết gì, bởi tôi biết có nói ra cũng không ai đồng tình với sự ương bướng của mình. Trời vừa chạng vạng, tôi đem cái lục lạc treo dưới chiếc xích đu với lời tự thưởng về sự thông minh của bản thân. Bây giờ không cần phải làm gì, ngoài việc cắt bớt mấy tàu lá chuối che quanh khung cửa sổ. Sau đó là chờ đợi…
Ngồi trong phòng với tâm trạng thấp thỏm rất là bực bội, tôi với tay lấy mấy quyển sách trên kệ ra xem. Kệ sách này là “tài sản” của “nhà xưa”. Nó lam nham bụi đóng bởi ít ai đụng đến, mặc dù có đôi lần tôi dùng chổi quét qua quít. Lần theo từng gáy sách, tôi chợt chú ý đến một quyển sổ nho nhỏ, bìa đã ngả màu, nằm chen lẫn trong mớ sách hỗn độn. Lấy nó ra trước ánh đèn tôi lật qua loa vài trang và phát hiện đây là một quyển nhật ký có thâm niên đáng nể. Mấy trang đầu viết nhăng nhít những sự kiện đáng nhớ, nhưng năm tháng rất xa. Sau đó như tức giận điều gì nên chủ nhân của nó xé đi, cũng may trên giấy còn lưu một số chữ đủ để phán đoán đây là một quyển nhật ký. Dòng chữ theo thời gian đã mờ nhạt, tôi phải đưa lại gần ánh đèn mới đọc được lõm bõm mấy chữ: “Nhỏ bạn sinh con mà mình cứ nôn nao… Anh ấy đi, ở nhà vắng ngắt… Con thú nhồi bông xinh ơi là xinh… Mình thích hát ru lắm… Ầu ơ cho ai… Nước mắt chảy ướt cả gối… Chắc anh ấy chán mình rồi… 14.8.1981… Hôm nay Vu Lan trăng đẹp lạ thường…” 
Sau nữa là những trang còn lành lặn, viết đầy những câu ca dao rất lý thú:
                                      
 “Má ơi con má chính chuyên                                        
Ghe bầu đi nối một thiên cá mòi                                        
Không tin mở hộp ra coi                                         
Rau răm ở dưới cá mòi ở trên…”                                        
“Chiều chiều hái mướp nấu canh                                        
Chạy ra xách chảo gặp anh trèo giàn                                        
Thôi thôi thiếp chẳng thương chàng                                         
Đôi bông thiếp trả đôi vàng thiếp xin…”                                        
“Má ơi con vịt chết chìm                                       
Thò tay xuống vớt, cá lìm kìm nó cắn tay…” 

Kế bên những trang giấy đó, là một khoảng bỏ trống bị xé toạc, với dòng chữ thấp thoáng bên góc trái mà ý nghĩa có trời mới hiểu được. Tôi kiên nhẫn lật những trang tiếp theo và cuối cùng cũng thỏa nguyện. Có hai ba trang trong quyển nhật ký bị nhảy cóc do cảm hứng của “tác giả” nên may mắn còn nguyên vẹn. Thời gian ghi trên quyển nhật ký cách nhau cả tháng, khiến tôi phải suy nghĩ và diễn giải nhiều:
“Ngày 8.9.1981. Hôm nay tính theo âm lịch là ngày 11 tháng 8, tiết bạch lộ, có sương. Tôi ngồi bên chiếc xích đu với những con búp bê nhồi bông rất dễ thương. Không biết mình chơi với những con thú bao lâu rồi? Chỉ biết đã thành thói quen mỗi khi anh ấy đi vắng. Tôi hiểu, khi người đàn bà không thể sinh con là một điều đau đớn nhất trong đời. Chồng dù thương, lâu ngày vẫn lạnh nhạt. Họ nhà chồng nhìn mình với ánh mắt thật khó tả. Có thể họ cho rằng, không sinh con là chuyện do mình gây ra, nên ánh mắt mọi người thật ghẻ lạnh. Sự khác biệt này chỉ có người trong cuộc mới hiểu, khi nhìn những đổi thay từng ngày trong mắt của người thân…
Nói ra ai cũng gật đầu cảm thông, nhưng thật giả tạo khi hiểu rằng, với cánh đàn ông việc có vợ mà không sinh con đã là bỏ đi. Ở nơi này người ta ủng hộ: “Không sinh con đâu phải tội của riêng mày”, nhưng nơi khác lại cho rằng: “Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại...” Chén trà tiệc rượu, lâu ngày ai mà chẳng dao động… Nỗi buồn đó đeo bám theo tôi với ước muốn mãnh liệt từ trong sâu kín: có một đứa trẻ để ru hời…
Càng lâu không có con, tôi càng yêu thích điệu hát ru. Những câu ca dao ngày thơ nhỏ, cảm nhận qua lời ru của mẹ, nay lại sống dậy với niềm tin cháy bỏng: Được hát ru cho đứa con riêng mình…
Nhưng đâu phải ở đời niềm ao ước nào cũng được thỏa nguyện! Nếu như vậy không phải mọi người đều hóa thành tiên hay sao? Tôi thích một đứa con, nhưng đó vẫn là chuyện của riêng mình chứ không thể bắt mọi người ban phát cho được. Và khi con người không quán xuyến được chuyện cá nhân thì đừng trách ông xanh sao vô tình chẳng đoái hoài đến…
…Ngày buồn quạnh quẽ cứ trôi. Với những con thú bông chơi đùa thay cho niềm mơ ước. Anh ấy ngày một xa vắng hơn… Tôi biết, nếu không có được một đứa con thì sớm muộn sẽ mất anh. Mất anh bởi chính cái điều mà cả hai đều ao ước. Và cháy bỏng nhất vẫn là người cùng một lúc phải đối diện với hai khó khăn: giữ được chồng và thiên chức của người đàn bà…
Nếu một ngày nào đó tôi vẫn đơn độc bên cái xích đu, thì cũng không trách được khi anh đi khỏi một gia đình mãi mãi chỉ có “hai người”… Buồn sao là buồn…!
“21.1.1984. Tiết đại hàn rơi vào ngày 19 tháng 12 âm lịch, năm Quý Hợi. Chỉ còn mười hai ngày là Nguyên Đán. Thời tiết lạnh quá mà tôi vẫn ngồi bên chiếc xích đu với những con thú tẻ nhạt. Bây giờ chỉ còn tôi trong những đêm se lạnh, ốm o, gầy guộc, với chứng suy nhược cơ thể và căn bệnh tim kéo dài bấy lâu. Tôi biết mình sẽ chết với giấc mơ chưa thành hình, nhưng vẫn ra ngồi bên chiếc xích đu để ru bài hát của ngày nào. Tay tôi vuốt ve lên con thú nhồi bông với sự dịu dàng của người mẹ. Nước mắt đã chảy xuống trong tiếng nấc nghẹn ngào. Tôi không biết nên trách người hay trách số phận, khi cuộc đời nhỏ nhoi muốn đánh đổi tất cả để một lần được làm mẹ… nhưng… mãi mãi cách xa… Còn lại tất cả là điệu ru ai oán được lưu truyền, nhưng đến tôi đã gián đoạn…
Ầu ơ… Gió đưa bụi chuối… ờ… ơ…sau hè… Anh theo vợ bé… ờ… ơ… Ầu ơ… Anh theo vợ bé bỏ bè con ơ… ớ… thơ… ơ… ơ…!
Dù sao đi nữa tôi vẫn muốn được làm mẹ. Cho dù… phải tái hiện ở kiếp sau… Như thế tôi cần phải tập hát ru. Hát cho thật hay để sau này đứa con ra đời sẽ nghe chính lời ru của mẹ nó. Trong tiếng kẽo kẹt của võng nôi, không thể thiếu lời hát ru. Con người có thể truyền nòi giống thì lời ru không thể mất đi cho những người như tôi được…”
Đọc đến đây tôi chợt nghe tiếng lục lạc khua khe khẽ dưới khung cửa sổ. Bước đến gần tôi nhìn thấy cái bóng lờ mờ trong làn sương trắng, đang đung đưa trên cái xích đu. Từ nơi ấy vang lên những lời ru quen thuộc, nhưng nó không còn làm cho tôi kinh sợ như buổi đầu nghe thấy nữa. Bây giờ tôi hiểu ai đã hát ru, khi đôi lần bà Tám hay than phiền về người con gái lớn bất hạnh của mình. Cô Hạnh mất cách đây đã mấy mươi năm. Lúc còn sống, người quanh đây đều khen đức hạnh và tình yêu trẻ của cô. Điều này giải thích vì sao chỉ có bé Tân là ngồi lên được cái xích đu… Trong khi tôi lại bị trẹo chân…
Nhìn trang nhật ký khiến tôi chạnh lòng. Con người có thể đánh mất nhiều thứ từ những toan tính mưu sinh, nhưng cái không thể đánh mất là thiên bẩm. Không riêng về việc duy trì nòi giống và phong tục tập quán, những đức tính sẵn có khác như: nhân hậu, trung tín, thủy chung v.v… nếu mất đi thì buồn thật… Và nếu như không ai than phiền về điều đó thì điệu ru bên chiếc xích đu thật đáng sợ biết bao…
Riêng tôi lại thấy rằng, từ đây nếu lời ru có vô tình bay vào tai trong những đêm khó ngủ, thì thật hạnh phúc. Bởi ý đồ chính của người ru vẫn là tìm đến một giấc ngủ say, cho một tâm hồn thơ dại và hồn nhiên…
                                                                                             
                                                 Bình Tân - 06.07.2011
                                                 MacDung                                                                                         



READ MORE - CÁI XÍCH ĐU KỲ QUÁI | Truyện ngắn | MacDung