Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Tuesday, May 14, 2019

NHỮNG BÀ MẸ CÔ ĐƠN | Thơ: Thy Lệ Trang | Nhạc: Cao Ngọc Dung | Tiếng hát: Tâm Thư

|
READ MORE - NHỮNG BÀ MẸ CÔ ĐƠN | Thơ: Thy Lệ Trang | Nhạc: Cao Ngọc Dung | Tiếng hát: Tâm Thư

ĐƠN CÔI | Thơ | Lệ Hoa Trần

Tác giả Lệ Hoa Trần



Đơn Côi 


Ngỡ ngồi cửa rộng, nhà sang

...... xuyên song chim hót, mai vàng nở hoa

Ra, vào có kẻ hầu bà

Lên xe, xuống ngựa lụa là gấm nhung

Là đời sung sướng vô cùng

Không vua, nhưng cũng là hoàng chẳng thua

Ai ngờ! Từ ấy mấy mùa

Cung son một bóng, sớm trưa một mình

Bao năm mang tiếng trao tình

Làm dâu xứ lạ đẹp xinh muôn điều

Chàng đâu chỉ thấy bóng... liêu

Phòng to, gác vắng hắt hiu thân gầy

Canh ba thức giấc trông... ngoài

Gió thu buốt lạnh, đêm dài lá rơi.....! 


Lệ Hoa Trần

06-05-2019



READ MORE - ĐƠN CÔI | Thơ | Lệ Hoa Trần

QUÊ TÔI ĐẤT KHỔ MIỀN TRUNG | Thơ | Thủy Điền

Tác giả Thủy  Điền


Quê Tôi Đất Khổ Miền Trung

Chiều buông khắp nẽo đường quê
Dòng sông phẳng lặng đò về bến xưa
Kìa xa mái nhỏ, luống dừa
Me ̣đang thổi lửa, khói đưa hương chiều
Bóng lam theo gió lêu xêu
Hoàng hôn tắt nắng cánh Diều ngưng bay
Xa xa hun hút đường dài
Tiếng ru con ngủ, giọng ai nghe buồn
Lập lòe ánh lửa trên nương
Canh ba tĩnh lặng màn sương chập chùng
Quê tôi đất khổ miền trung
Hạ về nắng cháy, bão bùng mưa to
Gió lào tháng sáu âu lo
Mẹ quê năm tháng đắn đo ngậm ngùi.

Thủy Điền
09-05-2019
READ MORE - QUÊ TÔI ĐẤT KHỔ MIỀN TRUNG | Thơ | Thủy Điền

CHỊ Ơi, ĐỪNG KHÓC! | Truyện ngắn | Lê Hứa Huyền Trân

Tác giả Lê Hứa Huyền Trân
CHỊ Ơi, ĐỪNG KHÓC!
Truyện ngắn 
Lê Hứa Huyền Trân

- tặng em gái Bảo Trân của tôi-

       Đôi khi con người ta lớn lên, tình cảm trở mình lội ngược vào trong lòng, giấu tận sâu thẳm, cứ tựa hồ như hở ra chút nào đó sẽ khiến con người trở nên yếu đuối vậy. Người lớn – họ tự cho phép mình cái quyền được mạnh mẽ, và dẫu tình cảm có dạt dào đến đâu, họ luôn giữ trong tim thật ý nhị, như chờ đến một lúc nào đó, phải thật bức bối, nó tuôn ra ào ạt đến nghẹt thở. Tôi là một người lớn như thế, một người lớn luôn giữ tất cả vào trong tim, tôi giữ cho mình một khoảng lặng, một dấu chấm nhẹ trong cuộc đời mình ở tất cả mọi thứ. Bởi thế nhiều khi tôi ganh tị, tôi ganh tị với chính em trai của mình, thằng cu Di, một đứa trẻ.
       Mẹ sinh cu Di khi đã lớn tuổi thế nên khi tôi đã là một sinh viên đại học thì nó chỉ mới lên năm. Ở cái tuổi của nó dường như nói thật mọi thứ là điều quá dễ dàng, nó không tính toán, không suy nghĩ thiệt hơn điều gì, chỉ biết nghĩ gì nói nấy mà thôi. Tôi ganh tị với nó, ganh tị ở cái “quyền trẻ con” ấy. giống như mỗi khi mẹ xoa đầu nó, ôm nó vào lòng tôi đứng từ xa ngưỡng vọng. Cái ngưỡng vọng của đứa con gái từ rất lâu rồi không ôm chầm lấy mẹ. Những người mẹ, họ không bao giờ chối từ cái tình thương cháy bỏng trong tim, mẹ cũng chưa bao giờ nguôi yêu thương giành cho tôi hay khát khao ôm tôi vào lòng như ngày còn thơ bé. Nhưng lớn dần lên, tất cả những cử chỉ yêu thương ấy tôi như muốn giữ cho riêng mình, không thích thể hiện ra ngoài. Tôi luôn tự bao biện đó là những cử chỉ của trẻ nít, thương yêu biết là thương yêu, nhưng lớn dần lên, bỗng đâm ra…ngại. Cu Di thì khác, nó cứ như cún con, cứ xoáy sâu vào lòng mẹ…
       Cu Di khác tôi lắm, nó tinh nghịch, hiếu động còn tính tôi thì lại trầm. Nhìn nó lăng quăng chơi thả diều cùng đám trẻ chăn trâu tôi nhớ lại khoảng thời gian thơ bé khi luyến thương thả trôi theo những cánh diều, anh trao tôi những quả sim chín mọng nơi vườn đồi. Ngày ấy tôi là một cô bé yêu những triền đê dữ lắm, lại mê đọc truyện tranh thôi rồi. Cứ mỗi bận chăn trâu thể nào tôi cũng mang theo quyển truyện đọc quên trời đất, tôi yêu bầu trời, yêu những câu chuyện cổ tich, yêu những cánh diều hun hút bay đến bến bờ tự do đợi chờ hạnh phúc. Còn anh, là cậu nhóc yêu những quả sim. Anh hay dẫn tôi đi hái sim, những quả sim chín mọng, chuyển thành màu đen lực lưỡng, săn lại nhưng ngọt nước, và cả những quả vả dại, chấm muối ớt cay xè mà thể nào mẹ cũng không cho ăn vì nghĩ rằng…đau bụng:
        -Tiểu Di ơi, Tiểu Di ơi, xuống thả diều với em đi này. (thằng cu em í ới gọi tôi, chúng tôi trùng tên, chỉ khác tên đệm)
        Tôi cười rồi lắc đầu. Kể từ khi bước vào đại học, tôi đã thôi những mộng mơ thời con gái, quên những triền đê, những cánh diều và những hôm cười chảy nước mắt. Có đôi lúc tôi cũng mơ mộng dữ lắm, nhưng một người lớn - ừ nhỉ- chạy đi thả diều, có điều gì đó nhìn – nói đơn giản- thấy như ngộ lắm.
        -Tiểu Di ơi, sao đấy? Mẹ bảo ngày xưa chị mê diều lắm!
        -Ừ. Đó là ngày xưa, giờ chị lớn rồi, đâu thể chạy cùng em thả diều như trước.
        -Sao không hả chị? Nếu lớn mà phải giữ mình như vậy em muốn mình mãi là con nít thôi.
        Lời nói của cu Di với nó chỉ là lời nói, chỉ là những nghĩ suy con trẻ bộc lộ nhất thời, nhưng với tôi đó là cả một khoảng trời, một điều chôn giấu bấy lâu làm tim tôi bức bối. Ai cũng bảo, con người ta muốn làm gì đều không ai cấm cản được, nhưng thực ra cái ranh giới giữa người lớn và trẻ nhỏ, tuy vô hình nhưng lớn lắm. Tôi không thể hồn nhiên vô tư như con nít mãi được, và có nhiều điều của con nít, tôi – dẫu muốn- cũng không thể làm được.

***

       Cu Di đánh nhau với thằng con to hơn cả nó, tôi bị vời ngay lên trường vì cả nhà bận ra đồng hết chưa về kịp. Nhìn thằng bé kia mặt mũi sưng húp, nhin cu Di mếu máo lấm lem không kém, và nhìn mẹ nhóc kia tố đủ thứ chuyện tôi rối bời. Cu Di tức vì mẹ bị nhóc kia mỉa mai nên lao vào đánh nó. Tôi thương em nhưng cũng giận nó, làm thế là không đúng, nó tức giận không chịu sai, bà kia càng làm tới, giận quá tôi tát nhẹ vào má cu Di:
        -Em thôi ngay đi!
        Nó nhìn tôi mếu máo:
        -Em ghét Tiểu Di! Làm người lớn mà như Tiểu Di, em không muốn!
        Từ bận ấy nó không nói chuyện với tôi, giận dai lắm. Tôi biết thằng nhóc kia sai nhưng em tôi cũng làm không đúng. Đêm, nghĩ thế nào, tôi ôm nó vào lòng mà khóc. Nó không nói gì nhưng hôm sau lại rủ tôi chơi đá kiện.

***

       Tôi chia tay với mối tình thời non trẻ, lòng chưa kịp buồn vì nỗi nhớ chưa nguôi thì cu Di ở đâu chạy tới:
        -Tiểu Di, Tiểu Di chia tay với anh Hoảng rồi hả?
        Tôi chưa trả lời thì nhóc đã ôm chặt lấy tôi:
        -Tiểu Di không sai đâu, không phải lỗi của chị đâu, em tin chị không muốn thế này mà!
        Tôi nghĩ ở lứa tuổi của nó, có thể còn chưa kịp hiểu tình yêu là gì, cái mà nó gọi là chia tay có chăng nó hiểu là người tôi thương đang đi đến nơi đâu xa lắm, nhưng nó luôn đứng về phía tôi, hay ít ra, nó luôn yêu thương tôi theo cái cách trẻ con của nó, yêu thương là luôn tin tưởng người đó, đứng về phía người đó vô điều kiện. Dẫu cho lí trí không còn hiện hữu. Tự nhiên bất giác, tôi ước gì mình được như cu Di, có thể thét lên thật to: “Chị ơi, đừng khóc”, có thể được lăn tròn vào lòng mẹ, có thể được chạy trên triền đê và hái những quả sim chín mọng. Hơn hết, tôi ước mình được bé lại, mãi bé lại như những điệu hò à ơi tôi vẫn hay nghe…Tôi ước mình được như Cu Di, và liệu “Di này” có thể được như “Di kia” không nhỉ?

Tác giả: Lê Hứa Huyền Trân
Hội viên Hội VHNT Tỉnh Bình Định

READ MORE - CHỊ Ơi, ĐỪNG KHÓC! | Truyện ngắn | Lê Hứa Huyền Trân

LƯƠNG CHÂU TỪ - RƯỢU VÀ NỖI SẦU CHINH CHIẾN - Phạm Đức Nhì


       
                      Nhà bình thơ Phạm Đức Nhì



LƯƠNG CHÂU TỪ - RƯỢU VÀ NỖI SẦU CHINH CHIẾN

“Lương Châu” Và “Từ” 

Lương Châu nay thuộc tỉnh Cam Túc, giữa Lan Châu và Vũ Uy, trước đây là nơi hàng bao thế kỷ người Hồ và người Hán đánh nhau. Lương Châu Từ là một điệu hát cổ nói về chuyện trận mạc biên ải. Những điệu hát cổ như: Thượng Chi Hồi, Chiến Thành Nam, Thương Tiến Tửu, Quân Mã Hoàng, Viễn Như Kỳ, Hoàng Tước Hành, Lạc Mai Hoa, v.v... được các thi nhân thời trước lấy làm đầu đề để sáng tác. (thivien.net/Vương-Hàn/Lương-Châu-từ-kỳ-1/poem) (1)

Từ, nói chung, là một khúc nhạc. Có rất nhiều điệu Từ. Mỗi điệu có một từ phổ, tác giả phải tìm những chữ thích hợp về thanh âm với công thức từ phổ để điền vào. Sáng tác Từ còn gọi là Điền Từ.

Như vậy, có thể nói Lương Châu Từ là một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt, luật bằng, vần bằng được tác giả khéo léo điền vào ăn khớp với một từ phổ của xứ Lương Châu. Đo đó, Lương Châu Từ còn được gọi là Khúc Hát Lương Châu.
Với thơ thất ngôn tứ tuyệt thì “nhất tam ngũ bất luận, nhị tứ lục phân minh”. Tuy nhiên, khi điền từ thì “nhất tam ngũ” nhiều khi cũng không được “bất luận” mà phải “uốn mình” cho hợp với thanh âm của công thức từ phổ.
Đây là bài bình thơ nên tôi chỉ bàn đến khía cạnh văn chương – nghĩa là sẽ đối xử với Lương Châu Từ như một bài thơ. Còn lãnh vực âm nhạc xin mời các cao nhân khác.

LƯƠNG CHÂU TỪ

Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.

                   VƯƠNG HÀN (1)


2/ Ba Cách Hiểu – Ba Bản Dịch

Câu thứ hai của bài thơ

Dục ẩm, tỳ bà mã thượng thôi

có 3 cách hiểu.

1/ Muốn uống (mà chưa uống) thì tiếng nhạc của nhóm nhạc công “cỡi ngựa chơi đàn tỳ bà” đã vang lên thúc giục, khuyên mời (uống rượu). Ở đây “tỳ bà mã thượng” được hiểu là nhóm nhạc công chuyên chơi đàn tỳ bà trên lưng ngựa.
2/ Muốn uống (mà chưa uống) thì ngay lập tức tiếng đàn tỳ bà đã vang lên thúc giục, khuyên mời (uống rượu). Ở đây “mã thượng” được hiểu là ngay lập tức, tức thì.
3/ Muốn uống nhưng tiếng đàn tỳ bà đã thúc giục lên ngựa ra đi.

Do câu thứ hai có 3 cách hiểu nên bài thơ có 3 bản dịch khác nhau.

1/
Rượu bồ đào rót vào chén dạ quang, mới dợm uống thì tiếng tỳ bà trên lưng ngựa đã giục giã khuyên mời. Đừng cười ta say vùi năm lăn trên bãi cát, anh nhé, vì xưa nay chinh chiến đã mấy ai sống sót mà về. (Khúc Hát Lương Châu, Chin Shun-Shin, Nguyễn Nam Trân dịch) (2)

2/
Rượu bồ đào cùng với chén lưu ly
Mới dợm uống thì đàn tỳ bà đã ngay lập tức giục giã khuyên mời
Nếu có say nằm lăn trên bãi cát xin bạn chớ cười (sa trường là bãi cát, nơi tập họp quân, chờ lên đường)
Bởi xưa nay chinh chiến mấy ai trở về.
                                                              (Tự dịch)
3/
Rượu bồ đào cùng với chén lưu ly
Muốn uống nhưng tỳ bà đã giục lên ngựa
Say khướt nằm ở sa trường, bác chớ cười (sa trường là chiến trường)
Xưa nay chinh chiến mấy ai trở về.
                                                           (Wikisource) (3)                         

Tác Giả Và Bối Cảnh Của Bài Thơ

Tác giả của Lương Châu Từ là Vương Hàn (687 – 735) - tự Tử Vũ, người đất Tấn Dương (nay thuộc thành phố Thái Nguyên tỉnh Sơn Tây). Thi đỗ Tiến Sĩ, đã từng được Tể Tướng Trương Thuyết mời về kinh đô làm Bí Thư Chính Tự, lo việc thư tịch.
Ông vốn con nhà giàu có, tính tình hào phóng phong lưu, hơi tự cao; khi uống rượu vui chơi thường sánh mình với các bậc vương hầu nên bị nhiều người đố kỵ. Năm 726, Trương Thuyết thất sủng phải giáng làm Trưởng Sử Nhữ Châu, Vương Hàn cũng bị đổi ra Tiên Châu (nay thuộc huyện Tây Phong tỉnh Liêu Ninh) làm chức nhàn quan hữu danh vô thực là Biệt giá. Sau ông lại bị biếm ra Đạo Châu và mất ở đấy.
Bài thơ là cảnh tiễn quân lên đường ra trấn nhậm (và chiến đấu) nơi miền biên ải. Quân thì đã tập họp đông đủ chờ lệnh. Lời thơ là tâm trạng của vị tướng chỉ huy đang nhận chén rượu tiễn đưa kèm những lời dặn dò, khích lệ của cấp trên (có thể là vua hoặc quan chức lớn hơn).
Vì thế, nếu cho rằng “mới dợm uống thì đàn tỳ bà trên lưng ngựa đã giục giã khuyên mời” (cách hiểu 1) hoặc “mới dợm uống thì ngay lập tức tiếng đàn tỳ bà đã vang lên giục giã khuyên mời (uống rượu)” (cách hiểu 2) và sau đó “nếu có say vùi nằm lăn trên bãi cát (nơi quân lính tập họp) xin bạn đừng cười bởi xưa nay chinh chiến mấy ai trở về” thì rõ ràng không hợp với bối cảnh của bài thơ.

Có mấy điểm hơi khó chấp nhận:
1/ Rượu bồ đào hảo hạng và chén ngọc lưu ly là những món quý thời bấy giờ nên khó có đủ để “mời’ cả đoàn quân uống đến mức “say vùi nằm lăn trên bãi cát”.
2/ Chuẩn bị xuất quân mà lại chuốc rượu cho cả tướng lẫn binh sĩ “say vùi nằm lăn trên bãi cát” thì không “thực tế” chút nào.

Tác Giả Có Phải Là Nhân Vật Chính Trong Bài Thơ?
Vương Hàn đỗ Tiến Sĩ, đã từng làm Bí Thư Chính Tự (chuyên về thư tịch) ở kinh đô nên không phải là võ quan - nhân vật chính (speaker) trong bài Lương Châu Từ. Có lẽ từng được chứng kiến nhiều buổi lễ tiễn quân lên đường, trong đó có một số vị tướng ông quen biết đã ra đi không về, nên sự thương cảm chất chứa trong lòng thôi thúc ông viết bài thơ.
Vốn con nhà giàu có, tính tình hào phóng, hay mở tiệc rượu vui chơi nên bài thơ của ông là lời kêu gọi sự thông cảm, bao dung cho những thái độ, hành động “hơi khó coi” của những người phải “bỏ dở cuộc vui” ở hậu phương để lên đường chinh chiến nơi miền biên ải, sống chết khó lường.

 “Lương Châu Từ” Là Bài Thơ Về Rượu Hay Về Nỗi Sầu Chinh Chiến?
Lương Châu Từ chỉ có 4 câu, 28 chữ nhưng nếu đọc lên hoặc ngâm nga thì có đến 16 chữ thấm đẫm hơi men, thơm nồng mùi rượu (câu 1, câu 3 và 2 chữ “Dục ẩm” của câu 2), 12 chữ còn lại (5 chữ sau của câu 2 và cả câu 4) bao phủ một không khí ly biệt, chết chóc, thê lương của chiến tranh. Cả bài thơ là một nỗi buồn sầu bao la, sâu lắng.
Câu hỏi được đặt ra ở đây là “Ý chính của bài thơ là gì? Rượu hay Chiến Tranh?” Tác giả mượn rượu để nói về chiến tranh hay mượn chiến tranh để nói về rượu?

Trong Say Đi Em, Vũ Hoàng Chương mượn rượu để nói đến nỗi tủi nhục, uất ức, buồn sầu (nói chung là thành sầu) của mình trước cảnh quê hương tan nát dưới gót giầy xâm lược của thực dân Pháp.
Nguyễn Bá Trác qua Hồ Trường mượn rượu để bày tỏ tâm trạng bất đắc chí của một sĩ phu yêu nước.
Chúng ta thử cùng xem cách dàn ý của Lương Châu Từ: (Tôi xin được dịch sát và thay đổi thứ tự các ý nhỏ để độc giả dễ phân biệt đâu là ý chính của tác giả và đâu là những ý phụ tác giả mượn để diễn đạt ý chính đó).

Rượu ngon chưa kịp uống (chưa được say) đã có tiếng tỳ bà giục lên ngựa (ra đi) mà chinh chiến thì xưa nay có mấy ai (sống sót) trở về nên nếu có say khướt, nằm dài giữa chiến trường xin bạn thông cảm, đừng chê cười.

Phần chữ in đậm là ý chính và phần chữ nghiêng là những ý mượn.
Như vậy, khác với Say Đi Em và Hồ Trường, Lương Châu Từ mượn chuyện chén rượu ngon chưa kịp uống và sự sống chết bất thường của chinh nhân rồi dùng thủ pháp “xạo nghệ thuật” biện minh và kêu gọi sự bao dung, thông cảm cho việc say khướt đến mức lố bịch ngoài chiến trường.
Cũng xin nói thêm là vào cuộc chinh chiến không phải lúc nào chinh nhân cũng cầm guơm giáo lăn xả vào đâm chém, sống chết với quân địch. Cũng có nhiều khoảng thời gian giữa những trận đánh - có khi rất dài - tướng tá, binh sĩ được thảnh thơi, dưỡng sức, vui chơi. Đó là lúc tìm những cuộc vui nho nhỏ cho qua ngày tháng và cũng có khi “say khướt, nằm dài giữa chiến trường” như đã nói ở trên.
Một điểm đặc biệt trong Lương Châu Từ là không biết vô tình hay cố ý Vương Hàn đã cho “ý mượn” được tiến lên vị trí ngang hàng với ý chính.
1/ Bằng câu “cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” ông đã thổi phồng quá lố con số những người ra đi không về đến nỗi nhà phê bình Thu Tứ phải lên tiếng:
“Ờ, mà đi thường cũng nhiều về chớ đâu tới nỗi hiếm. Trận nào đây mà người dự bi quan thế?” (Lương Châu Từ Của Vương Hàn, Thu Tứ, gocnhin.net) (4)
2/ Câu “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” thuộc phần “ý mượn” nhưng lại được đặt ở cuối bài làm nhiệm vụ của câu kết nên lưu lại ấn tượng mạnh hơn.
Chính vì thế tuy phần nói về chiến tranh chỉ là phụ, là “ý mượn”, nhưng không khí ly biệt, chết chóc của chiến tranh trong bài thơ có vẻ như không thua kém hình ảnh “túy ngọa sa trường” tý nào – dù hình ảnh này đã được thủ pháp “xạo nghệ thuật” tô vẽ thêm rất nhiều.
Phương cách có hơi bá đạo (thổi phồng quá lố) nhưng với độc giả của Lương Châu Từ lại đạt hiệu quả cao. Họ rất dễ thông cảm với hành động “tìm những cuộc vui nho nhỏ” ngoài chiến trường dù lắm khi đi đến chỗ “khó coi” như “túy ngọa sa trường”.

Sau đây là vài khuyết điểm của bài thơ:

Thổi Phồng Quá Lố.

Như đã nói ở trên, “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” là câu thơ hơi “xa sự thật”. Tuy nó đóng góp rất nhiều cho việc vẽ lên bức tranh chết chóc, thê lương một cách đáng sợ của chiến tranh, giúp thuyết phục đám đông độc giả dễ tính thông cảm, chấp nhận hình ảnh “túy ngọa sa trường” của chinh nhân. Nhưng nó cũng để lại một vết ố không nhỏ trong bài thơ dưới mắt những người làm công việc thẩm định giá trị nghệ thuật thơ ca.

Mời độc giả thử để ý câu thơ:
Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu
Câu thơ này có 2 phần. “Tửu phùng tri kỷ” là phần “gốc”, là chỗ dựa, là cái cớ để tác giả vin vào đó mà “xạo tới bến”, “nói một tấc đến giời”.  “Thiên bôi thiểu” là phần “ngọn”, là phần “nói một tấc đến giời” đó. Do có “phần gốc” hợp lý, vững chãi làm chỗ dựa nên phần ngọn dù cường điệu hết cỡ, dù “xạo tới bến” vẫn rất dễ được chấp nhận. Uống rượu gặp tri kỷ thì nghìn chén cũng là ít. “Nghìn chén cũng là ít” là quá xa sự thực, quá xạo, quá vô lý. Nhưng cái quá xạo, quá vô lý ấy đã “tạo sự đột phá, thay đổi cái trật tự đời thường bằng cái phi lý mà có lý trong nghệ thuật” nên đã làm mới câu thơ và được hoan nghênh nhiệt liệt. Đó là biện pháp tu từ có tên “lối nói thậm xưng” mà trong một số bài viết tôi gọi là “xạo nghệ thuật”.
Cũng vì sự quá lố của câu “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” mà thủ pháp “xạo nghệ thuật” trong Lương Châu Từ đã bị giảm hiệu quả khá nhiều.

Cái Kẹt Của Thơ Tứ Tuyệt

Thử tưởng tượng đang xem một pha đá phạt trong bóng đá. Điểm đá phạt ở ngoài nhưng ngay sát vòng 16 mét 50 trước khung thành đối phương. Cầu thủ được huấn luyện viên chỉ định đá phạt cầm bóng đặt vào vị trí. Những cầu thủ khác của cả hai đội cũng tùy nhiệm vụ của mình mà dàn quân. Ai cũng sẵn sàng để nếu bóng bật ra là tìm cách đưa bóng vào khung thành (nếu là đội công) hoặc cản phá (nếu là đội thủ). Thế rồi tiếng còi của trọng tài vang lên, cầu thủ đá phạt - bằng kỹ thuật và kinh nghiệm của riêng mình – sút bóng qua hàng rào người, vào lưới. Tiếng reo hò, vỗ tay của khán giả vang dậy cầu trường.
Nhưng nếu bóng đá mà chỉ toàn những cú đá phạt như vậy thì chán chết. Khán giả sẽ không thấy được tài sắp xếp thế trận của huấn luyện viên, không thấy được khả năng chận bóng, đi bóng, lừa bóng, sút bóng “sống”, cản phá bóng, khả năng phối hợp nhịp nhàng với đồng đội khi lên công, lúc về thủ của cầu thủ. Khán giả sẽ không có những giây phút đứng tim khi đội bóng cao hứng chơi xuất thần, có những đường chuyền “đẹp như mơ”, những cú sút “không thể tin là có thực” đưa bóng vào cầu môn đối phương. Tất cả đã đưa bóng đá lên ngôi “thể thao vua”, thu hút sự yêu mến đến cuồng nhiệt của hảng tỷ người trên thế giới.
Cũng vậy, một bài thơ ngắn cỡ tứ tuyệt không đủ chữ để thi sĩ trổ tài điều binh khiển tướng, sắp xếp đội hình cho một trận đánh có tầm vóc. Đề tài thường rộng, chung chung, không đủ không gian và thời gian đi vào tâm tình riêng tư của nhân vật để cảm xúc có cơ hội dâng lên cao ngất.

Trong Lương Châu Từ, bóng dáng của lý trí vẫn còn rất rõ nét trong từng chữ, từng câu thơ. Tứ thơ không đủ dài để độc giả thấy được sự “vận động” của ngôn ngữ, để cảm xúc có sóng sau dồn sóng trước, lớn mạnh đến mức đẩy lý trí đi chỗ khác chơi, tạo được cao trào cho hồn thơ xuất hiện.

Hai Chữ “Dục Ẩm” Vừa Dở Lại Vừa Hay Tuyệt

Một điểm hơi xa thực tế nữa đến từ hai chữ “Dục ẩm” – trong ngữ cảnh của bài thơ có nghĩa là “muốn uống”, “toan uống”, “chưa kịp uống”. Như đã nói ở trên, bài thơ là khung cảnh tiễn quân lên đường ra trấn nhậm (và chiến đấu) nơi vùng biên ải. Quân thì đã tề tựu đông đủ; tướng thì đang nhận chén rượu tiễn đưa kèm những lời dặn dò của vua hoặc một quan chức lớn hơn.
Nghe dặn dò xong, hớp vội chén rượu, vị tướng bước ra cổng thì đàn tỳ bà trỗi lên thúc giục ông lên ngựa – và cũng thúc giục cả đoàn quân - lên đường. Dốc cạn chén rượu chưa hết một giây nên chuyện “chưa kịp uống” là rất khó xảy ra.  Thêm vào đó, cái cảnh bỏ lại chén rượu cấp trên ban thưởng để lên ngựa dẫn quân ra trận là rất “khó coi”. Vội vã như thế không phải lối; vừa bất kính với cấp trên, vừa không hợp với cung cách ứng xử của một vị tướng.
Hơn nữa, người chỉ huy ban nhạc đàn tỳ bà đâu phải “muốn chơi lúc nào cũng được” mà phải trổi nhạc đúng thời điểm đã được căn dặn trước (lúc vị tướng uống rượu xong).
Thấy ra điểm bất hợp lý này nên một nhà thơ, nhà văn, nhà sử học người Anh ông Pierre Stephen Robert Payne (1911-1983), đã dịch bài thơ ra tiếng Anh như sau:

 The Song of Diangchow

The beautiful grape wine, the night-glittering cups
Drinking or not drinking, the horns summon you to mount.
Do not laugh if I am drunk on the sandy battlefield
From ancient times, how many warriors ever returned!
                              (Lương Châu Từ, Lý Văn Quý) (5)

trong đó câu thứ 2 “Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi” được dịch là “Uống hay không uống, tù và đã giục lên ngựa”.
Tuy nhiên, “Dục ẩm” cũng có cái hay của nó. “Muốn uống”, “chưa kịp uống” nếu hiểu rộng ra còn có nghĩa là “cuộc vui chưa trọn”. Mà cuộc vui trên đời đâu phải chỉ có rượu. “Cuộc vui chưa trọn” còn có thể là ái ân phu thê đứt đoạn, tình yêu lứa đôi dở dang, ơn cha chưa trả, nghĩa mẹ chưa đền, những dự tính, ước mơ chưa thực hiện … và còn muôn ngàn thứ khác nữa.
Lên đường chinh chiến không phải chỉ đem mạng sống của mình “đùa” với giáo gươm, súng đạn mà còn là chấp nhận nhiều mất mát hy sinh khác; đó là chấp nhận giã từ biết bao “cuộc vui chưa trọn” của đời người.
Bài thơ Màu Tím Hoa Sim của Hữu Loan có nói gì đến chết chóc ngoài chiến trường đâu. Anh chồng chiến binh mới cưới vợ và 3 người anh của vợ cũng đều là bộ đội, vẫn sống nhăn trong khi cô vợ ở hậu phương yên bình thì lại …  chết đuối trong lúc đi giặt quần áo ở bờ sông. (Lời Tự Thuật Của Hữu Loan, Tác Giả Màu Tím Hoa Sim) (6)
Tội ác của chiến tranh trong Màu Tím Hoa Sim không phải là những cái chết của người lính ngoài chiến trường mà là sự chia xa, phải giã từ những “cuộc vui chưa trọn”. Sau đây là vài chi tiết làm quặn thắt lòng người:
1/

Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo cưới
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giầy đinh bết bùn đất hành quân

Đám cưới mà cô dâu không có thời gian (và tiền) để may áo cưới. Chú rể mặc đồ lính, đôi giầy vẫn còn vết bùn chưa giặt sạch.

2/
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi

Được 2 tuần phép nhưng phải để một tuần hâm nóng tình xưa, “tuần sau đó” mới kết hôn. Như vậy, cưới vợ xong, chỉ có một tuần trăng mật; đang mặn nồng đã phải chia tay lên đường ra đơn vị. (6)

3/
         Ba người anh được tin em gái mất
         trước tin em lấy chồng

Đám cưới của em gái không được về dự, rồi quan san cách trở đến mức “biết tin em gái mất trước tin em lấy chồng” thì quả là vô cùng đau xót.
Ở đây con người không bị đổ chung vào một thúng kiểu “cá mè một lứa” như Lương Châu Từ mà là một cá thể có tâm trạng và cảm xúc riêng biệt. Hữu Loan đã đủ tài năng và nhạy cảm để qua Màu Tím Hoa Sim, cho độc giả thấy một khuôn mặt khác của chiến tranh, không sặc mùi xương máu, chết chóc mà có vẻ rất hiền lảnh - hiền lành nhưng đã nhẫn tâm cướp đi những thứ quý giá nhất của con người.

Vương Hàn, qua Lương Châu Từ, chỉ với hai chữ “Dục ẩm”, đã bóng gió nói đến những “cuộc vui chưa trọn”, những thứ quý giá nhất đó. Có điều vì thể thơ tứ tuyệt “thiếu quân” nên điều muốn nói không được đậm nét và mãnh liệt như Màu Tím Hoa Sim.
Con người trong hoàn cảnh đó có sống cũng chỉ là cái sống sinh học của thể xác, còn những thứ để con người được sống như một Con Người đã bị chiến tranh cướp mất.
Sống như thế, đến cuối đời nhìn lại, quãng thời gian đó chẳng khác gì mình đã chết.

“Tử Biệt” “Sinh Ly” Trong Cuộc Nội Chiến Bắc Nam

Mới đây, nhân ngày 30 tháng Tư (2019), tôi đọc được đoạn thơ của nhà giáo Thái Bá Tân (qua emails):

Bộ đội Miền Bắc chết
Một triệu một trăm nghìn.
Số lính Miền Nam chết -
Hai trăm tám hai nghìn.

19 Tháng Tư, 2019
(Thái Bá Tân, 30 Tháng Tư, 1975)

Tác giả không chú thích nên tôi không biết nguồn gốc của những con số ấy. Nhưng tôi không tin là ông viết bừa, nói bậy. Thứ nhất, vì uy tín của mình; thứ hai, nếu “được hỏi thăm” mà ú ớ, không biết những con số đó xuất xứ từ đâu thì … kẹt lắm - cả về trách nhiệm dân sự lẫn hình sự.
“Một triệu một trăm nghìn” bộ đội chết là con số rất lớn (so với dân số Miền Bắc thời chiến tranh) nhưng đã tương xứng với câu thơ “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” chưa, thì còn tùy độc giả nhận định. Có điều tôi dám xác quyết là nỗi khổ, nỗi buồn “sinh ly” của bộ đội và người dân Miền Bắc so với binh lính và người dân Miền Nam thì khác nhau một trời một vực.
Tôi có ông anh họ ở Kiến An. Cuối năm 1988 tôi về quê tìm đường vượt biên, gặp nhau hắn tâm sự:
Tớ vừa đến tuổi, chưa biết yêu, chưa nếm mùi đàn bà, đã phải lên đường vào Nam. Không nhớ là mấy năm sau, gặp thằng bạn cùng lớp ở rừng Quảng Đức, hỏi thăm chuyện gia đình thì nó vừa cười vừa nói “Tao có khác gì mày. Trời sinh ra cái b. của tụi mình chỉ để đái thôi”.
Chỉ một câu nói đùa nhẹ nhàng mà làm xót xa biết bao nhiêu cõi lòng, làm nhức nhối biết bao nhiêu trái tim. Bởi nếu cái b. chỉ để đái, thế còn “cái ấy” của phụ nữ thì sao? Rồi còn sợi dây tình cảm nối người này với những người khác; chính sợi dây đó làm đời sống tinh thần của con người thêm phần phong phú. Thiếu nó, thiếu chút ít thì còn cố chịu được, chứ thiếu nhiều thì “chất người” sẽ nhạt dần đi, còn vắng bặt nó thì con người sẽ không còn là con người nữa.
 Những người lính ở Miền Nam cũng đau thương mất mát nhưng không đến nỗi ghê gớm như vậy. Họ được chiến đấu ở “sân nhà” nên hậu phương gần gũi hơn, mất mát về mặt tình cảm ít hơn, nhẹ hơn. Những “cuộc vui dang dở” thường có cơ hội lập lại để “vui trọn đêm nay”. Nhưng mất mát dù có nhẹ hơn chút ít cũng vẫn là mất mát, cũng để lại những vết thương, những nỗi đau sâu đậm trong tâm hồn mỗi người, chữa trị phải tốn rất nhiều thời gian và công sức.

Tóm Tắt Giá Trị Nghệ Thuật Của Bài Thơ

ƯU ĐIỂM:

1/ Tứ thơ hay: Lương Châu Từ mượn chuyện sống chết bất kỳ của chinh nhân trong chiến tranh để biện minh (xin thông cảm) cho một số thái độ, hành động của người lính ngoài chiến trường. “Túy ngọa sa trường” chỉ là một thí dụ.
2/ Tính nhân Bản: Cái hay tuyệt của bài thơ nằm ở 2 chữ “Dục ẩm” – có ý nói tiệc rượu chưa tàn, nói rộng ra là “cuộc vui chưa trọn”. Chiến tranh là tử biệt, sinh ly (chưa nói đến sự tàn phá về vật chất). Nhưng người đời thường chú trọng phần “tử biệt” mà coi nhẹ phần “sinh ly”. Chính “sinh ly” đã bóp nghẹt chữ “tình” để con người chỉ còn là những cỗ máy lao vào chém giết. Vương Hàn, bằng 2 chữ “Dục ẩm” đã sử dụng thủ pháp “gợi, không kể” (Show, Don’t Tell) một cách điệu nghệ làm nổi bật chữ “tình” bị bóp nghẹt đó. Tính nhân bản của bài thơ rất sâu đậm.
3/ Mặc dù trong bài thơ, chiến tranh chỉ được mượn để biện minh cho một số thái độ và hành động của người lính ngoài chiến trường nhưng chính hình ảnh chiến tranh lại hiện lên rất đậm nét ở cả 2 mặt “tử biệt”“sinh ly”. Có người còn đặt tựa cho bài viết của mình về bài thơ này là “Lương Châu Từ và Nỗi Buồn Chiến Tranh” hoặc “Lương Châu Từ - Khúc Bi Ca Thời Chiến”. Tôi cho rằng, trong trường hợp Lương Châu Từ, họ hoàn toàn có quyền làm như vậy.

KHUYẾT ĐIỂM:

1/ Hai chữ “Dục ẩm” (như đã nói ở trên) hơi không hợp lý.
2/ Câu “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” hơi “xa sự thực”, ảnh hưởng đến thủ pháp “xạo nghệ thuật” và độ khả tín của bài thơ.  Chỉ nên nói đại ý “chinh chiến thì sinh tử bất kỳ”.
3/ Bài thơ nặng về “kỹ thuật” (ngôn ngữ, hình tượng, “gợi không kể”), ít cảm xúc, lại quá ngắn nên không có chỗ cho cảm xúc lớn mạnh để tạo cao trào – không có cơ hội để hồn thơ xuất hiện.

Phổ Biến Rộng Rãi Nhờ Tứ Thơ

Thảm họa của chiến tranh quá khủng khiếp. Nó là nỗi sầu, nỗi lo sợ, nỗi ám ảnh lớn nhất của nhân loại. Mà muốn “phá thành sầu”, muốn quên sợ, muốn trốn ám ảnh thì không gì bằng rượu.  Vì thế Lương Châu Từ là bài thơ khá phổ biến, thỉnh thoảng được đọc trong các tiệc rượu, hoặc những lúc “trà dư tửu hậu” thời chiến tranh. Hơn nữa, nó ngắn, dễ thuộc lại là thơ Hán - Việt nên đọc cũng là một cách “khoe tài”. Những nhà Nho Hán rộng, những người có hiểu biết về văn chương, thơ phú thì không nói làm gì; ngay cả các ông một chữ Hán bẻ làm đôi không biết, nói đến thơ phú thì ù ù cạc cạc, cũng ráng học thuộc lòng bài thơ rồi nhờ người giảng giải để ghi nhớ, chờ cơ hội vào bàn nhậu là “trổ tài” góp vui với bà con cô bác. (Tôi đã được hân hạnh giúp vốn cho hơn một chục ông như vậy).
Bài thơ là tâm sự của một vị tướng chỉ huy, nhưng người đọc thơ không phải là tướng tá (sĩ quan) cũng không sao. Đã mặc áo lính là có thể ưỡn ngực với danh hiệu chinh nhân. Mà nếu không phải là chinh nhân cũng đâu có hề gì. Thảm họa của chiến tranh lớn quá. Bàn tay tàn ác, gớm ghiếc của nó – lúc trực tiếp, khi gián tiếp - có thể vươn tới tất cả mọi người, bất kể lính tráng hay dân thường. Rồi câu “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” có quá lố một chút thì cũng có gì mà ầm ĩ? Rạch ròi làm chi cái con số người sống sót trở về! Và như thế, dù là người đọc hay người nghe, rất dễ thả hết tâm hồn vào bài thơ, đồng cảm với tác giả - nghĩa là cũng mở lòng bao dung với thái độ, hành động của người lính ngoài chiến trường (hay khi về phép ở hậu phương) – đôi lúc thái quá, “khó coi” có khi còn hơn cả “túy ngọa sa trường” nữa.
Điểm thành công lớn của bài thơ là ở chỗ đó.

Kết Luận

Xét về nghệ thuật thơ, Lương Châu Từ vẫn còn đôi chỗ lộm cộm, nhưng nhờ tứ thơ hay, đầy tính nhân bản nên đã 13 thế kỷ trôi qua, nó vẫn chưa có dấu hiệu sẽ đi vào quên lãng. Theo tôi, đây là một bài thơ độc đáo. Với những người yêu thích cổ thi Trung Hoa, khi nhâm nhi ly bia, chén rượu, tách trà, nhớ đến nỗi sầu “sinh ly tử biệt” của chiến tranh, Lương Châu Từ rất dễ bước vào câu chuyện để “Mua vui cũng được một vài trống canh.” 

                                                         TEXAS 05/2019
                                                       PHẠM ĐỨC NHÌ
                                                   nhidpham@gmail.com

CHÚ THÍCH

1/
https://www.thivien.net/V%C6%B0%C6%A1ng-H%C3%A0n/L%C6%B0%C6%A1ng-Ch%C3%A2u-t%E1%BB%AB-k%E1%BB%B3-1/poem-DYGad0thHvgCxK3Szp1zVQ
2/
(http://chimvie3.free.fr/69/NNT_ChinShunShin_KhucLuongChau_069.htm
3/
https://vi.wikisource.org/wiki/L%C6%B0%C6%A1ng_Ch%C3%A2u_t%E1%BB%AB
4/
http://www.gocnhin.net/cgi-bin/viewitem.pl?5927
5/
http://www.svqy.org/frame/luongchautu.htm
6/
https://kimdunghn.wordpress.com/2014/08/13/loi-tu-thuat-cua-huu-loan-tac-gia-mau-tim-hoa-sim/

THAM KHẢO

1/ Bài Thơ Lương Châu Từ kỳ 1, Vương Hàn, Thi Viện
https://www.thivien.net/V%C6%B0%C6%A1ng-H%C3%A0n/L%C6%B0%C6%A1ng-Ch%C3%A2u-t%E1%BB%AB-k%E1%BB%B3-1/poem-DYGad0thHvgCxK3Szp1zVQ
2/ Lương Châu Từ, Lý Văn Quý
 http://www.svqy.org/frame/luongchautu.htm
3/ Về Bài “Lương Châu Từ” Của Vương Hàn, Hà Việt Hùng, Làng Huệ
https://langhue.org/index.php/bien-khao/vien-tai-lieu-trau-cau/7813-ve-b%C3%A0i-lluong-chau-tu-cua-vuong-han-ha-viet-hung-vien-trau-cau
4/ Lương Châu từ, Wikipedia tiếng Việt
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C6%B0%C6%A1ng_Ch%C3%A2u_t%E1%BB%AB
5/ Lương Châu Từ, Nguyễn Hoài Văn
http://nguyen.hoai.van.pagesperso-orange.fr/LuongChauTu.htm
6/ Lương Châu Từ, Khai Phi Hạnh Nguyên
http://www.khaiphi.com/posts/luong-chau-tu/
7/ Lương Châu Từ - Khúc Bi Ca Thời Chiến, Lê Quang Đức
https://vnexpress.net/giai-tri/luong-chau-tu-khuc-bi-ca-thoi-chien-1973830.html
8/ Lương Châu Từ Và Nỗi Buồn Chiến Tranh, Hình Phước Liên
http://www.ninhhoatoday.net/vanky32-8.asp

READ MORE - LƯƠNG CHÂU TỪ - RƯỢU VÀ NỖI SẦU CHINH CHIẾN - Phạm Đức Nhì

PHƯỢNG HỒNG TRƯỜNG CŨ, MẮT BIẾC MÔI XƯA - Thơ Nguyên Lạc


 

                  Nhà thơ Nguyên Lạc   
         

PHƯỢNG HỒNG TRƯỜNG CŨ

Nhớ chi. chiều nắng tan trường?
Để lòng thờ thẫn. phượng hồng rơi rơi!
Khi. em nở nụ son môi
Thấy. tôi run rẩy. một đời cuồng si!
Yêu chi. dáng mỏng xuân thì?
Tóc mây hờn dỗi?
Trói ghì đời riêng!

Khi em. tình khúc muộn phiền
Hồn tôi. ngày tháng tầm ruồng. ngu ngơ!
Mắt môi. trọn những trang thơ
Đầy đêm chong mắ́t. hoài mơ tình đầu!

Tình giờ sương khói. tan mau!
Để tôi ở lại. tiếc màu thời gian

Phượng hồng. hoa rụng đỏ sân!
Có người. trường cũ. thấy hồn mưa rơi!
Hè. sao nỗi lạnh người ơi?!
Đường xưa
Phố cũ...
Tình tôi đâu rồi?!


MẮT BIẾC MÔI XƯA

Mắt nàng. lá trúc bên song
Cứa tôi một nhát. vết lòng trăm năm!
Ơn người. một nụ môi son
Đỏ màu phượng thắm. điếng hồn. dại ngây!

Có ai bên gốc phượng gầy
Hoa xưa vẫn đỏ!
Sao phai lời thề?
Trường xưa!
Đâu?
Trắng mộng mơ
Mắt dài lá trúc
Đôi bờ son môi!
Phố xưa
Một bóng mồ côi!
Nỗi sầu bạc tóc
Đi tìm thời qua!

Đã xa...
Tình cũng mù sa!
Người xa... xa lắm
để ta... chạnh lòng!

Thắm chi?
những cánh phượng hồng!
Liếc chi?
mắt trúc
để hồn muôn niên!

Nguyên Lạc

READ MORE - PHƯỢNG HỒNG TRƯỜNG CŨ, MẮT BIẾC MÔI XƯA - Thơ Nguyên Lạc

CÁI CÓ THỂ..., CHÚT TÌNH... - Thơ Tịnh Đàm



                        Nhà thơ Tịnh Đàm




CÁI CÓ THỂ...

Cái có thể, tôi dành cho mơ ước
Để cuộc đời thắm thiết những yêu thương.
Mắt nhìn đâu cũng thấy đẹp lạ thường,
Niềm thân ái trên môi cười rạng rỡ.


CHÚT TÌNH...

Từ em xưa...
Nhớ về đây.
Niềm yêu thương cũ
Đã gầy...
Dáng hoa !

Chút tình,
Còn níu mộng xa.
Sầu tôi
Ngần ấy...
Chỉ là chiêm bao !

TỊNH ĐÀM
(Hóc Môn, TP. HCM)

READ MORE - CÁI CÓ THỂ..., CHÚT TÌNH... - Thơ Tịnh Đàm