Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Tuesday, December 31, 2019

VĂN TẾ VUA HÀM NGHI - Nguyễn Phúc Vĩnh Ba


Vua Hàm Nghi (1871-1943)


Văn tế vua Hàm Nghi
(Linh hồn phong trào Cần vương kháng Pháp)

 
Hỡi ơi,

Đất khách thân lưu.
Quê nhà hồn mộng.
Vua một nước lưu đày vì nước, khổ ấy là vinh,
Người hai quê khoắc khoải nhớ quê, chết mà như sống.
Việc bôn tẩu mưu đồ diệt tặc, dân còn ghi cốt khắc tâm minh,
Chuyện bại hư hữu chí vô thời, sử đã chép công bình chính thống.

Thế mới hay,

Đạo nghĩa(1) vốn trường tồn,
Giang sơn là chí trọng.
Suốt muôn đời, gương ái quốc treo cao,
Khắp mọi chốn, tiếng ưu dân truyền rộng.

Nhớ linh xưa.

Bẩm tính thông minh
Giống dòng vương tộc.
Đến cái lúc hoàng triều suy nhược, Nam kỳ mất rồi Bắc kỳ(2) cũng mất, nhường sông cắt đất đã hung.
Gặp phải thời bạch quỉ xâm lăng, chiến phí nhiều thêm bồi phí quá nhiều, đòi nợ réo tiền quá thúc.
Bóng triều ca tà xế tựa chiều, tứ nguyệt những tam vương(3)
Mối xa thư vùi rối như tơ, nhất giang mà lưỡng quốc.
Giang sơn binh cách(4), tang tóc thương vong tràn ngập, quân dân xương máu tơi bời,
Điện miếu đảo khuynh, đổi thay phế truất liên hồi, quan tướng kế mưu hiểm hóc(5).
Lên ngôi báu tuổi vừa mới lớn(6), thấy cổn bào mà sợ, từ mẫu ngóng theo,
Cầm quyền uy tóc vẫn măng tơ, lên bảo điện còn run, thị thần dẫn bước.
Điện Thái Hoà rộn gót giày săng đá(7), nghĩ tới thêm đau,
Cửa Ngọ Môn vang giọng nói lang sa(8), nghe mà nổ óc.
Nghi lễ quàng xiên,
Thánh uy meo mốc.

Than ôi,

Trong đã không yên,
Ngoài thì quá bức.
Đờ Cuốc-Xy(9) ngông nghênh doạ nạt, lâu la đông đảo, ta cũng nao lòng,
Hoàng thái hậu(10) mềm dẻo nhún nhường, lễ vật đàng hoàng, chúng càng cậy sức.
Quan Quận cam tâm sang ra mắt, giặc lại làm kiêu,
Quan Tướng phẫn chí thác nằm nhà, mình lo lựa lúc.
Chốn Tân Sở, sơn phòng đã lập, gạo tiền đồn luỹ sẵn sàng
Nơi Kinh Thành, cai đội đang chờ, gươm giáo đao khiên túc trực.
Nhìn dân lành dầu sôi lửa bỏng, lòng xót miên man.
Thấy bọn ác cổ cỡi đầu đè, máu hờn sôi sục.
Chết vì đất nước cũng đành.
Sống với địch thù quá cực.
Đêm Hăm hai, quân ta xuất trận, Toà Khâm Mang Cá lửa cháy pháo vang,
Rạng Hai ba, bọn chúng phản công, Thượng Tứ Lương Y đạn vèo lê thúc.
Dân hoảng hốt đổ xô chạy loạn, lớp chết lớp thương
Lính kiên gan ào ạt diệt thù, đứa rơi đứa gục.
Thương ôi! Gậy gộc chống ngăn đạn sắt, kẻ lủng bụng lòi gan,
Giận thật! Ghe thuyền đánh với tàu đồng, người tan thây vỡ ngực.

Thôi thôi,

Hoàng thành bái biệt, trí thơ ngây nào hiểu được quân cơ(11),
Hiểm địa tị thân, lòng khôn lớn dần nhìn ra thế cuộc.
Cần vương ban chiếu(12), kêu muôn dân góp sức diệt sài lang,
Cứu quốc truyền văn, gọi trăm xứ vùng lên tru xâm lược.
Sơn lam chướng khí, Quảng Trị rồi Quảng Bình Hà Tĩnh, lao đao thân ngọc hao mòn,
Duyên hải viễn biên, Bình Định đến Thanh Hoá Hưng Yên, chốn chốn lòng son sáng rực.
Ngược Bắc có Đình Phùng, Thiện Thuật, … máu thằng Tây đẫm giáo dân lành,
Xuôi Nam thì Xuân Thưởng, Trung Đình(13) gươm quân Việt bêu đầu bọn ác
Khi Ấu Sơn khi Tuyên Hoá, chân ngày đi quen ghềnh thác rú rừng,
Lúc Tân Sở lúc Hương Khê(14), thân đêm ngủ bạn muỗi mòng sên vắt.
Dân vì nước, gà trâu heo lúa, bán sạch mà mua súng đánh Tây
Vua vì dân, đèo ải buôn mường, len khắp cả giương cờ phá tặc.
Sốt run cầm cập, chí đâu sờn bởi chính nghĩa nấu nung,
Rét lạnh rẩy run, lòng vẫn ấm vì nhân dân đùm bọc.

Thương ơi,

Lương cùng đạn kiệt, quan Tướng đành cầu viện lân bang(15),
Thế lẻ thân cô, nhà vua bị gian thần phản trắc(16).
Sa vào tay bạch quỉ vẫn bình tâm thanh thản(17), long uy xui lũ cướp kính vì,
Chết dưới kiếm phản đồ mà bất khuất hiên ngang, hộ giá(18) để đời sau ngưỡng phục.
Mẹ đau cũng mặc(19), nhà tan nước đổ, tâm ý nào thăm viếng dưới trên;
Thầy đến phải chào(20), giấy rách lề nguyên, lễ nghĩa vẫn giữ gìn sau trước.
Cờ quân địch tựa như muối xát, mỉa mai chi người đã thất cơ.
Còi tàu binh nào khác ớt hun, dày vò mãi kẻ đà bại cuộc.
Tủi thân đón cuộc lưu đày,
Xa xót đi về đảo giặc.

Thảm ơi,

Nghìn trùng thương đất mẹ, từ nay côi cút xứ người,
Vạn lý nhớ quê nhà, e trọn sầu bi cõi tục.
Ngàn Thông(21) đó lầu cao gió thổi, vui chi đâu lòng nghẹn mối căm hờn,
“Chiều tà”(22) đây góc tạm đời thừa, xót biết mấy dân còn nơi cũi ngục.
Giữ trang phục, luôn dài đen luôn búi tó(23), nào có quên thân kiếp sa chân.
Giết thời gian, khi khắc tượng khi vẽ tranh, cố tìm nguôi nỗi buồn mất nước.
May mắn thật, nên chồng nên vợ, trai gái nối dõi giòng(24).
Hiếu nghĩa sao, cũng bánh cũng hương, cháu con thờ họ tộc(25).
Năm mươi sáu năm lưu đày vong quốc, tha phương nặng trĩu gánh sầu,
Bảy mươi tư tuổi thọ mãn phước phần(26), tiên cảnh nhẹ nương cánh hạc
Đất lạ mồ xa gởi xác, lênh đênh An Rế(27) lại Lang Sa.
Làng yêu quê mến du hồn, phiêu bạt Cấm Thành(28) qua Thương Bạc.

Nay,

Bùi ngùi bao, tưởng nhớ bậc minh vương.
Cay đắng lắm, xót thương người chính trực
Trời xa mộ lạnh, Tho-nac(29) ơi, xin ấp ôm tàn cốt anh hùng
Đất mẹ quê xưa, Huế đô này, tưởng nhớ mãi uy linh thống khốc.
Hoa hương bày biện, truy niệm ân thâm
Bánh trái cúng dâng, tụng xưng thạnh đức.
Hồn hỡi linh thiêng,
Xin về thụ lộc.

Nguyễn Phúc Vĩnh Ba

Chú thích:

1.      Đạo làm vua phải lo cho dân, nghĩa làm dân phải lo bảo vệ đất nước (Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách).
2.      Theo hiệp ước Patenôtre (Giáp Thân, 1884), triều đình Huế công nhận sự bảo hộ của Pháp ở cả Bắc kỳ và Trung kỳ. Nam kỳ thì đã cát cho Pháp, triều đình Huế chỉ là một hư vị.
3.      Trong vòng bốn tháng, ba vị vua (Dục Đức, Hiệp Hoà, Kiến Phúc) đã liên tiếp bị phế truất trước khi vua Hàm Nghi lên ngôi. Pháp đặt Toà Khâm sứ ở hữu ngạn sông Hương chính thức bảo hộ Nam triều theo hiệp ước Giáp Thân. Hồi ấy truyền tụng câu đối “Nhất giang lưỡng quốc nan phân Thuyết/ Tứ nguyệt tam vương triệu bất Tường.
4.      Ở Nam kỳ cũng như Bắc kỳ các phong trào kháng Pháp nổ ra khắp nơi gây nhiều tổn thất cho giặc Pháp.
5.      Hai phụ chánh đại thần Nguyễn Văn Tường (Quan Quận) và Tôn Thất Thuyết (Quan Tướng) đã ám hại nhiều người như vua Dục Đức, vua Hiệp Hoà, vua Kiến Phúc, Phụ chánh Trần Tiễn Thành, Hồng Sâm, Hồng Phì,.. vì họ không theo chủ trương đánh Pháp của hai ông này.
6.      Vua Hàm Nghi (1871 - 1944) lên ngôi mới 13 tuổi. Khi có người đưa áo mão đến ngài không dám nhận, và khi bước lên ngai vàng phải có thị thần dìu đi.
7.      Đại tá Guerrier và Khâm sứ Rheinart vào điện Thái Hoà làm lễ phong vương cho vua Hàm Nghi ngày 27.6 năm Giáp Thân (1884).
8.      Tháng 4 năm Ất Dậu, Thống tướng De Courcy sang Bắc Kỳ. Tháng 5 y mang 1024 quân đi tàu đến Huế, đòi hai quan phụ chánh Tường và Thuyết sang Toà Khâm trình diện. Giày da của lính Pháp thường được gọi là giày săng đá (soldat: người lính)
9.      France (nước Pháp) được âm ra tiếng Việt là Phú-lang-sa, hay còn gọi tắt là Lang-sa.
10. Hoàng thái hậu Từ Dũ lệnh mang lễ sang tặng Thống tướng De Courcy để mua chuộc lòng y, nhưng y không nhận.
11.  Theo Nguyễn Quang Trung Tiến trong bài “Vị thiếu niên trưởng thành từ niên thiếu” đăng ở Tạp chí Thông tin Khoa học và Công nghệ số 01 (7), 1995 thì khi hai ông Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết tâu vua lánh đi tị nạn, vua Hàm Nghi bảo “ Ta có đánh nhau với ai mô mà phải chạy.”
12.  Ra Tân Sở, ông Thuyết xin lệnh vua ra Hịch Cần Vương, rồi sau đó ban Dụ Cần Vương kêu gọi sĩ phu và dân chúng nổi lên đánh Pháp, giành độc lập Tổ quốc.
13.  Phong trào Cần Vương sôi sục nổ ra khắp nước, tiêu biểu như Nguyễn Thiện Thuật ở Hưng Yên, Phan đình Phùng ở Hà Tĩnh, Mai Xuân Thưởng ở Bình Định, Lê Trung Đình ở Quảng Ngãi,...
14.  Tân Sở (Quảng Trị), Ấu Sơn, Hương Khê (Hà Tĩnh), Tuyên Hoá (Quảng Bình) là những nơi vua Hàm Nghi đã ở lại trước khi bị bắt.
15. Phụ chánh Tôn Thất Thuyết đã để vua ở lại Hà Tĩnh, còn mình đi Quảng Châu cùng Đề đốc Lê Trực, Phạm Tuân cầu viện Trung Hoa.
16.  Suất đội Nguyễn Đình Tín dụ được Trương Quang Ngọc đầu thú, rồi dẫn Pháp đến vây bắt vua Hàm Nghi khuya 26 tháng 9  Mậu Tý (1888).
17.  Khi bị bắt, nhà vua bình thản chỉ mặt Ngọc quát “Thà mi giết ta đi còn hơn mang ta ra nộp cho Tây.”
18.  Con trai của ông Thuyết, Tôn Thất Thiệp, lúc ấy đang hộ vệ nhà vua bị đâm chết. Tôn Thất Đạm nghe tin cũng treo cổ tự ải.
19.  Khâm sứ Rheinart báo cho vua biết là Thái hậu đang ốm nặng, nếu nhà vua muốn thăm hỏi thì sẽ cho rước về gặp mặt.  Vua Hàm Nghi đáp, “Tôi thân đã tù, nước đã mất, còn dám nghĩ gì đến cha mẹ anh em nữa.”
20.  Dù vua Hàm Nghi làm ngơ, giả như là không phải là vua khiến giặc Pháp hoài nghi không biết có phải bắt nhầm người hay không. Tuy vậy, khi thấy thầy giáo cũ là Nguyễn Nhuận đến xem, Ngài đứng dậy vái chào khiến đã lộ ra chân tướng.
21.  Pháp bố trí nhà vua ở tại biệt thự Ngàn Thông (Villa des Pins) trong thủ đô Alger, sau nhà vua cải tên thành biệt thự Gia Long.
22.  “Chiều tà” là một bức tranh nổi tiếng của vua Hàm Nghi. Ngài có thiên khiếu về mỹ thuật, điêu khắc và đã vẽ nhiều bức tranh rất đẹp theo trường phái Gauguin. Hàm ý của bức tranh “Chiều tà” có lẽ là cuộc đời êm ả về chiều của một kiếp người bất hạnh chăng?
23.  Ở Algérie, nhà vua luôn mặc y phục Việt (áo dài đen, khăn bịt đầu), tóc búi tó, ăn cơm Việt. Dân bản xứ gọi Ngài là ông Hoàng An Nam (Prince d’Annam). Ngài luôn luôn giữ tư cách một nhà vua yêu nước và bất khuất nên chính quyền thực dân Pháp tại Alger tỏ ra rất kính trọng Ngài.
24.  Nhà vua lấy vợ người Pháp là bà Marcelle Aimée Léonie Laloe và có 3 người con: 02 gái và 01 trai. Đó là công chúa Như Mai, công chúa Như Lý và hoàng tử Minh Đức.
25. Nhà vua cho xây Gia Long các 2 tầng, có bộ mái tựa như Phu Văn lâu để thờ vua Gia Long và liệt tổ liệt tông. Ngài tổ chức cúng bái tổ tiên hàng năm tại đây.
26.  Trên mộ Ngài có ghi 1871 – 1944, tức nhà vua thọ 74 tuổi ta, và đã ở Algérie tổng cộng 56 năm (1888 - 1944)
27. Ghi âm từ Alger, thủ đô của Algérie.
28.  Tử Cấm thành.
29.  Nghĩa trang ở làng Thonac, Dordogne thuộc Pháp nơi hiện nay có mộ vua Hàm Nghi, được cải táng từ thủ đô Alger sang. Vợ con Ngài (ngoại trừ công chúa Như Lý) cũng chôn cất tại đây.



  


(Trích từ tập sách 
TÂM THÀNH LỄ BẠC  
Cáo Phú Hịch Văn Tế Văn Bia, 
tác giả Nguyễn Phúc Vĩnh Ba, 
tác giả gởi tặng.)
READ MORE - VĂN TẾ VUA HÀM NGHI - Nguyễn Phúc Vĩnh Ba

HÀN SAN TỰ và HÀN SAN TỬ - Chu Vương Miện


Hàn San Tự
và Hàn San Tử
(Phiếm luận)
CHU VƯƠNG MIỆN

Nhiều năm cho tới bây giờ Hàn San Tự (Chùa Hàn San) và Hàn San Tử (cao tăng thi nhân Hàn San) vẫn còn có nhiều người lẫn lộn. Ngay Lê Nguyên Lưu người soạn ra cuốn Ðường Thi dầy trên 2000 trang cũng vẫn lẫn lộn và nhiều người dịch thơ Ðường vô ý một chút là lẫn lộn ngay. Ngay chữ Hàn San Tự thường được dịch là (chùa trên núi lạnh) bởi từ khi có cao tăng thi nhân Hàn San và dân chúng vì ngưỡng mộ tài đức của ngài, nên khi ngài viên tịch thì mang tên ngài đăt cho tên một ngôi chùa nhỏ ở ngoại ô Tô Châu (Cô Tô) là Hàn San Tự.
Sau đây chúng tôi trích dẫn một ít tài liệu trong các sách có liên quan đến Hàn San.
1. Hàn San Tử là thi nhân thời danh thời Trung Ðường và cũng là vị tăng lữ, sống vào thời Trinh Quan thường được gọi là (Quốc Thanh tam ẩn) ông cư trú ở núi Hàn Nhai, huyện Ðường Hưng, Thiên Thai (nay là Thiên Thai Chiết Giang) thường đến chùa Quốc Thanh thăm bạn là thi tăng Thập Ðắc.
(Trích Từ Ðiển văn học Trung Quốc của Nguyễn Tôn Nhan trang 135.)
2. Hàn San tện một ngôi chùa danh tiếng ở ngoại thành Cô Tô do câu Cô Tô thành ngoại Hàn San Tự.
3. Hàn San hiệu của vị cao tăng đời nhà Ðường ẩn tu trong một hang núi có tuyết lạnh (tức là văn thù bồ tát).
(Trích Thành Ngữ điển tích Danh Nhân từ điển, trang 402 của Trịnh Văn Thanh, cuốn 1.)
4. Hàn Sơn hay Hàn San tên ngôi chùa ở Cô Tô phía Tây Phong Kiều huyện Ngô, chùa có tên ấy vì đời Ðường là nơi cư trú của hai nhà sư Hàn San và Thập Ðắc, nay vẫn còn, chùa thấp nhỏ bình thường. Sau vườn có gác chuông. Gần đây trong chùa dựng tấm bia khắc bài thơ (Phong Kiều Dạ Bạc) của thi nhân Trương Kế do Khang Hữu Vi đời Thanh viết, chữ to ba bốn tấc.
(Trich Ðường Thi tuyển dịch của Lê Nguyên Lưu, trang 1679.)
5. Hàn San Tự, theo tương truyền, khi chùa mới lập có hai vị cao tăng mồ côi tu tại chùa tên là Hàn San và Thập Ðắc, hai người rất thương yêu nhau như anh em ruột và dân chúng lấy tên một trong hai vị sư này để đặt tên ngôi chùa có từ thời vua Ðường Huyền Tôn trước năm 756 rất xa.
(Ký sự du lịch Trung Quốc, trang 348, Trịnh Hảo Tâm.)
Thực tế chùa Hàn San được xây từ năm 502, tên cũ là Diệu Lợi Phổ Minh Tháp Viện, sau đó đến nhà Ðường được gọi là Hàn San Tự, đến thởi Bắc Tống Thái Bình Hưng Quốc (976-984), Tiết Ðộ sứ Trung Ngôn Tôn Thừa Hữu xây Phật Tháp bẩy tầng. Đời vua Tống nhân Tôn (1056-1063), chùa được trùng tu đẹp hơn. Ðến triều nhà Thanh, đời vua Hàm Phong năm thứ 10 (1860), chùa bị binh lửa bỏ điêu tàn trong một khoảng thời gian khá dài, mãi đến năm 1910 mới được tu sửa lại hơn xưa, và có tên Hàn San Tự trở lại.

Hàn San Tự (chùa) cách trung tâm Tô Châu chừng 5 cây số (ở ngay Cô Tô) kinh đô cũ của nước Ngô (Phù Sai) tọa lạc bên con kinh đào hẹp và có một cây cầu đá dốc cao bắc ngang trước chùa cây cầu này qua xóm nhà bên kia kinh đào có tên là Giang Thôn nên gọi là Giang Thôn Kiều. Không phải là Phong Kiều trong bài thơ đã nói đến.
(Ký sự du lịch Trung Quốc, trang 34, Trịnh Hảo Tâm.)

Về cách đọc bài thơ phong kiều dạ bạc:
Thơ thì có nhiều cách đọc và nhiều cách dịch, tuy nhiên trước khi đi vào nội dung bài thơ nổi danh của thi hào Trương Kế, chúng tôi xin đi ra ngoài lề một chút, về chữ Hán (chữ Tàu), thường không phân biệt danh từ chung và danh từ riêng và cũng không viết Hoa. Hàn San được hiểu là sư Hàn San cũng được mà chùa trên núi lạnh cũng được, ngoài ra tiếng toàn quốc (và tiếng địa phương] âm đọc đôi khi giống nhau (nhưng nghĩa lại có khi khác nhau),
Ví dụ:
Khi Vướng An Thạch (lúc chưa làm tể tướng) đi chấm thi ở Hàng Châu (thi Hương), ông gặp một bài Phú rất hay, tuy nhiên trong bài Phú này có hai câu làm ông không hiểu (khó nghĩ) là:
Minh nguyệt sơn đầu khiếu
Hoàng khuyển ngọa hoa tâm
Dịch nghĩa :
trăng sáng gáy đầu núi
chó vàng nằm trong lòng hoa
Ông lấy bút ghi lại hai câu thơ này và sửa lại ra ngoài tờ giấy của ông như sau:
Minh nguyệt sơn đầu chiếu
Hoàng khuyển ngọa hoa âm
Dịch nghĩa:
Trăng sáng chiếu đầu núi
Chó vàng nằm dưới bóng hoa
Sửa xong thi Vương An Thạch thấy câu thờ tầm thường, cuối cùng thì Vương An Thạch cũng đánh rớt người khóa sinh đó. Sau vài năm thì ông mới hiểu ra rằng minh nguyệthoàng khuyển người Hàng Châu cho đó là một loài chim Minh Nguyệt (hót ở đầu núi đêm trăng sang) và Hoàng Khuyển là một loại sâu nhỏ nằm cuộn tròn trong lòng bông hoa mai hay hoa đào vào mùa xuân.

Bây giờ trở lại bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế. chúng tôi không bàn chi cho dài dòng và chỉ tóm tắt lại một bài kiên khảo đăng trong tờ Kiến Thức Ngày Nay (ỏ Việt nam),, hình như ấn hành vào thập niên 90. Bài viết này tường thuật một giáo sư học giả người Nhật sang tận nơi (Chùa Hàn San ở tận Tô Châu) để tìm hiểu bài thơ. Và hỏi rất kỹ về cách đọc làm sao cho đúng thì được nhà sư trụ trì giải thích như sau:
Nguyên tác bài thơ (Phong Kiều Dạ bạc) của Trương Kế.
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San Tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền

Bài thơ này đọc theo âm Quan Thoại:

Yùe lóa ù thỉ xuân mãn thện
Chiên phong ýu fò túi sầu mển
Củ tô sấn oải Hàn San xứ
Dé bán chung sâng táo khớ soàn.

Giai thích:
Câu 1:  Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Ngắt câu như sau: nguyệt, lạc ô đề, sương mãn thiên
Giải nghĩa câu 1:
Trăng, lặn về thôn Ô Đề, sương đầy trời
Câu 2:  Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Giải nghĩa câu 2:
Cây cầu, lửa chài đối diện với ngọn núi Sầu Miên [Sậu Miên Sơn]
Câu thứ 3 và câu thứ tư:  hiểu theo như cũ.
Và theo ý của sư trụ trì thì bài thơ bất hủ của thi hào Trương Kế chỉ là bài thơ Tả cảnh sông nước. trước mặt chùa Hàn San là núi Sầu Miên và bên cạnh chùa là cây cầu Phong Kiều, bên kia con lạch là thôn Ô Ðề (chỉ có vậy).
Tài liệu tham khảo thêm: Trung Quốc ký sự tập 4 trong cuốn 1(bộ 3 cuốn)
Phụ lục:
(Hàn San thi uyển)
Những bài thơ này được trích từ web (Chim Việt Cành Nam) do nữ si Quỳnh Chi phỏng dịch một số bài thơ của cao tăng Hàn San.
Theo sách Nhật thi như sau:
Cao tăng Hàn San tu ở núi Thiên Ðài. Những bài thơ này trích trong Hàn San Thập Ðắc của soạn giả Kusomoto Bunyu (nguuời Nhật) của nhà xuất bản Kodunsha, xuất bản năm 1995 (Hàn San thi uyển).

Nhân vấn Hàn San đạo
Nhân vấn hàn san đạo
Hàn San lộ bất thong
Hạ thiên băng vị thích
Nhất xuất vụ mông mông
Tự ngã hà đo giới
Dữ ngã tâm bất đồng
Quân tâm nhược tự ngã
Hoàn đắc đáo kỳ trung

Người hỏi đường tới Hàn San
Hỏi thăm đường đến Hàn San
Làm chi có lối mà mong hỏi tìm
Giữa hè băng tuyết chẳng tan
Mặt trời lên vẫn tỏa sương mịt mù
Đừng toan theo gót chân ta
Lòng người khác với lòng ta chẳng cùng
Ngày nao đến được hàn san
Là khi người đã một lòng cùng ta

Quỳnh Chi phỏng dịch.

(Chim Việt số 28 ra ngày 1/9/007)

Kỳ tam thập nhị
Đăng trắc hàn san đạo
Hàn San đạo bất cùng
Khê trường thạch lỗi lỗi
Giản khoát thảo mông mông
Đài hoạt phi quan vũ
Tùng minh bất giả phong
Thủy năng diêu thế lụy
Cộng tỏa bạch vân trung

Bài thứ ba mươi hai
Trèo lên đường núi lạnh căm
Đèo cao đường núi cây quanh chẳng cùng
Đá chừng róc rách suối tuôn
Cỏ lan dưới lũng sương lam mịt mờ
Rêu trơn chẳng phải vì mưa
Dù cho gió lặng thông già vẫn reo
Lụy trần ai chẳng mang theo
Trong mây tìm đến vui vầy cùng ta

Quỳnh Chi phỏng dịch

2/12/007

(Chim Việt số 29 ra ngày 2/12/007)

Kỳ tam thập ngũ
Yểu yểu hàn san đạo
Lạc lạc lãnh giải tân
Thu thu thường hữu điểu
Tịch tịch canh vô nhân
Tích tích phong xuy điện
Phân phân tuyết tích thân
Triều triều bất kiến nhật
Tuế tuế bất tri xuân

Bài thứ ba mươi lăm
Đường lên núi lạnh mịt mờ
Cheo leo ghềnh đá bên bờ suối tuôn
Tiếng chim rừng bvẳng xa xăm
Tịch liêu cảnh vắng đường không bóng người
Gió lùa rát mặt khô môi
Tuyết rơi la tả trên vai đong đầy
Sáng ra chẳng thấy mặt trời
Xuân về đâu để tháng ngày dần qua

Quynh Chi phỏng dịch
4/12/007

(Chim Việt số 29 ra ngày 2/12/007)

Sau khi rời khỏi Tô Châu (Cô Tô) thì cao tăng Hàn San về tu ở núi Thiên Thai Ðài thuộc tỉnh Chiết Giang. Thiền sư có làm nhiều thơ trong Hàn San Thập Ðắc thi uyển và nơi đây là mấu chốt dễ dẫn đến người đọc thơ Ðường và người dịch thơ Ðường đến chỗ lầm lẫn.

Ngôi chùa được mang tên Hàn San (tự) tọa lạc tại thành Cô Tô cũ (thuộc thành phố Tô Châu) là một mặt đất bằng phẳng, có sông lạch, có cầu và có núi (Sầu Miên) có thôn Ô Ðề nhưng những bài thơ trong Hàn San thi uyển thì thiền sư Hàn San hay nhắc tới (Nhân vấn Hàn San đạo) hoặc Đắng trắc Hàn San đạo, hoặc Yểu yểu Hàn San Ðạo, có nghĩa là nơi này toàn là đường núi tuyết lạnh căm không có dấu chân người, mặt trời lên mà sương núi vẫn mờ mịt.

Ðọc thoáng qua, hoặc chỉ căn cứ vào một vài bài thơ lẻ của thiền sư Hàn San đẻ chuyển dịch ra tiếng Việt thì thường hay bi lẫn lộn giữa chùa Hàn San (ở Cô Tô) và thiền sư Hàn San ở núi Thiên Thai (đài).

Nên Nhân vần Hàn San đạo chúng tôi chuyển dịch thành Hỏi thăm đường tới nơi cư ngụ của thiền sư Hàn San.

Chu Vương Miện


READ MORE - HÀN SAN TỰ và HÀN SAN TỬ - Chu Vương Miện