Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Friday, October 19, 2018

LỜI KINH (2) - Thơ Trần Mai Ngân


       
                       Nhà thơ Trần Mai Ngân


LỜI KINH (2)

Trú trong kinh Bát Nhã
Lời xưa và dáng em
Chim bay về lối cũ
Đậu lại khóc bên thềm...

Mùa Xuân sao lại mưa
Cây Sầu Đông trổ muộn
Chiều xanh gầy dấu xưa
Thương nhớ sao cho vừa

Tiếng chuông hồi huyễn mộng
Gióng lên tình hư không
Mây bay trôi vô vọng
Tôi nhớ người xa xăm...

Ai cho tôi trần gian
Chôn những nỗi âm thầm
Lấp vùi gần trăm năm
Tim tôi sầu rướm máu

Ai cùng tôi nương náu
Những rã rời nay mai
Bới tìm hoài vô vọng
Nguyện cầu đừng nhạt phai...

                 Trần Mai Ngân
                    23-9-2018

READ MORE - LỜI KINH (2) - Thơ Trần Mai Ngân

MÙA THU TRỞ LẠI - Thơ - Đình Thu

Tác giả Đình Thu
Mùa thu trở lại 

Dường như mùa thu trở lại
Sao chiều ngồi ngóng heo may
Vô tình nghe nắng hát
Gió ôm mây lạc giữa chân ngày

Con đường ươm nắng lụa tinh khôi
 Bờ vai nghiêng …
 Ai pha màu tóc ngắn
 Người ngồi ngẩn ngơ say

Đi chầm chậm …
Chạm vào chiều vương vấn
Khúc yêu thương
Nồng lên môi

Hình như mùa thu trở lại
Mắt em hoà vào trời xanh
Hoa cúc vàng khoe sắc
Nắng mơn man khua nhẹ gót hồng

Ô cửa vẫn còn nguyên màu kỷ niệm
Chờ người xưa!
Quay trở lại với thời gian
Lá vàng rơi …
Hồn tưởng chừng say đắm
Cảm ơn mùa thu ... mắt biếc xa xăm 

                                          Đình Thu

READ MORE - MÙA THU TRỞ LẠI - Thơ - Đình Thu

VỀ QUÊ NGOẠI - Thơ - Nguyễn Hữu Minh Quân




VỀ QUÊ NGOẠI

Sau những tháng ngày ly loạn
bên ngoại bây giờ chẳng còn ai
lần nào về quê mẹ cũng khóc
đến rìa làng thắp hương xong lại đi…

Dư vang lẫy lừng một thời khanh tướng
chỉ còn lưu ghi trên mộ bia
lòng rưng rưng quặn thắt
nhìn dáng mẹ như một chấm chiều
liêu xiêu giữa đồng vắng
lạc lõng rơi vào quạnh hiu… 

Nhu Lý 4.7.2017


READ MORE - VỀ QUÊ NGOẠI - Thơ - Nguyễn Hữu Minh Quân

THU NHỚ NGƯỜI - Thơ - Song Trần



THU NHỚ NGƯỜI

Thu Texas ông mặt trời ngủ sớm!
Ở phuơng nầy thương nhớ một người
Heo may lạnh đã về khắp mọi nơi
Nhìn lá rụng nào vơi niềm mơ ước

Thời gian nhé! biết làm sao gặp được?
Có bao điều muốn nói  lúc xa nhau
Bao cánh mail, kỷ niệm khó phai màu
Dù nay đã đường đời ngăn đôi ngã

Có thể  được anh làm cơn gió lạ
Quạt nồng em trong những lúc ngủ trưa
Hay có thể, nguyện làm giọt nước mưa
Làm cho ướt làn da em tươi mát

Thu Texas lá vàng rơi lác đác
Cho hồn thơ khơi dậy chút bâng khuâng
Mong nơi kia, em thoáng chút lâng lâng
Để nhớ lại những ngày ta chung bước

Song Trần

READ MORE - THU NHỚ NGƯỜI - Thơ - Song Trần

MẸ TÔI - Nguyễn Đại Duẫn

Tác giả Nguyễn Đại Duẫn

MẸ TÔI


Mẹ mất ngày 10 tháng 3 âm lịch. Ngày giỗ Tổ Hùng Vương cũng là ngày giỗ mẹ. Vậy mà mẹ đã đi xa bảy năm rồi. Đứng trước di ảnh của mẹ, mắt tôi ngấn lệ. Làn khói nhang vờn trước mặt như  thấy bóng mẹ về. Mẹ đó! Mẹ nhỏ bé, nước da mằn mặn đồng chiêm, hai hàm răng nhuộm đen như hạt na sáng bóng. Khuôn mặt dịu dàng có duyên của mẹ làm cho tôi luôn tự hào vì ai cũng bảo tôi giống mẹ.
Lúc nhỏ, ngày trời mưa, tôi ru em, mẹ đưa cái rổ may ngồi cạnh tôi vá áo quần.  Mẹ kể chuyện về ông bà ngoại. Ông mất sớm, còn bà thì bị bom của máy bay giặc Pháp trong một dịp dự cưới cháu họ. Mẹ nói, ngày đó là ngày để tang cả làng, hai quả bom đã làm mất đi mấy chục sinh mạng. Mẹ dừng kể, tôi thấy trên khóe mắt mẹ những giọt lệ rơi. Mẹ côi cút nuôi dì, cậu tôi khôn lớn. Rồi mẹ lấy chồng. Bố tôi là người cùng xóm. Chưa được mấy tháng, bố đi bộ đội chống Pháp. Rồi hòa bình chưa được bao lâu, bố lại tạm biệt quê hương, gia đình khoác ba lô đi một mạch vào Nam đánh giặc. Mẹ ở nhà một mình tần tảo nuôi bà nội đã già yếu và bốn chị em tôi đang còn thơ dại. May sao ông trời phú cho mẹ sức khỏe. Mẹ quần quật việc đồng áng, việc nhà, chợ búa… Quần quật là thế mà chúng tôi ít khi có được một bữa cơm no, cá mặn. Mẹ lặng nhìn chúng tôi húp xoàn xoạt những bát cháo rau, giành nhau từng khúc sắn đã lên mùi. Mẹ bảo, các con cố chịu khổ cực, lương thực còn dành cho chiến trường để bố và các chú bộ đội ăn no đánh thắng giặc Mỹ, mau chóng trở về. Tôi nghe thế thôi chứ có hiểu gì là chiến trường.  Chỉ mong đến tết để được một bữa cơm không độn, có miếng thịt mỡ là thích lắm. Ngày đó, mất mùa do sâu bệnh, thời tiết, khoa học thì lạc hậu. Ruộng vườn bị bom Mỹ băm nát nên đói cũng phải. Rồi thanh niên trai tráng thì lên đường đánh Mỹ. Ở lại quê chỉ còn các ông bà già, phụ nữ và trẻ con nên việc đồng áng thất thường.
Chị tôi đi học lớp y tá của tỉnh khi tôi mới 8 tuổi. Vậy là tất cả công việc bế em, cơm nước, lợn gà…đều do một tôi đảm nhiệm. Thỉnh thoảng phải trông nom bà nội. Bà già yếu, mắt kèm nhèm mỗi khi đi đâu phải dắt bà. Tuổi ăn ngủ như tôi phải đảm đương bao nhiêu việc… Cùng tuổi, mấy đứa trong xóm được đi thả diều, đá bóng, bơi lội ... Vất vả nhất là giữ đứa 2 tuổi (em út lúc bấy  giờ). Nó đang còn nhỏ, phải bồng bế đi chơi, ru ngủ… Mỗi khi đói chẳng biết cho nó ăn gì cả. Một hôm, mẹ đi làm, ở nhà nó khóc. Tôi chặt mía, vô tình lưỡi dao va vào đầu em chảy máu. Hoảng quá, tôi tìm tổ nhện cái đắp cầm máu, rồi giao cho đứa em 5 tuổi giữ, tôi ra đồng tìm mẹ. Đến đầu làng, mấy đứa rủ rê đá bóng. Tôi là cầu thủ bắt gôn, thế mà trận đấu quan trọng giữa hai xóm lại thiếu thủ môn. Quên bẵng hai đứa em đang khóc ở nhà, tôi nhận lời.  Tối về thấy mẹ đang tắm rửa cho hai đứa. Đứa nào cũng đất đai bê bết, nước mắt lưng tròng. Sợ bị mẹ mắng nên tôi giả ốm đi ngủ. Mẹ không đòn, không mắng. Mẹ bảo tôi là anh lớn trong nhà nên phải biết chăm em, giúp mẹ để mẹ làm việc có cơm ăn, áo mặc cho các con đi học như bạn bè.
Còn nhớ,  những lúc học bài, mẹ vẫn thức  ngồi bên tôi tập đánh vần để đọc được thư bố.  Mẹ học lớp 2 bình dân học vụ, lâu không đọc nên quên mặt chữ. Rồi dần dần mẹ cũng đọc được thư, mừng lắm, nay không phải nhờ tôi nữa. Tôi có ý buồn. Mẹ bảo, thư bố gửi về hai mẹ con cùng đọc chung.  
Năm tuổi lên 10, tôi đi sơ tán ở Thanh Hóa. Mẹ buồn nhưng không khóc. Mẹ nói, đi để giữ nòi giống cho gia đình, cho quê hương. Mẹ dặn, phải học giỏi, ngoan ngoãn với gia đình mình ở để được gia đình quí mến. Mẹ dúi vào tay tôi 5 đồng để tiêu vặt. Tôi tần ngần …và không lấy. Mẹ cất để nuôi em, con biết mua gì đâu,  rồi mất tiếc lắm!. Những ngày tháng xa mẹ tôi nhớ mẹ nhiều. Nhớ những lúc mẹ đi làm về vận trong lưng quần con muỗm, con cà cuống…đem nướng thơm lừng. Nhớ bà. Không biết ai dắt bà đi vệ sinh, dắt xuống hầm. Nhớ hai đứa em, rồi ai bồng ẵm nó, chơi với nó…Những lúc như vậy nước mắt tự nhiên trào ra. Nghe lời mẹ dặn, tôi cố gắng học giỏi và ngoan. Những lá thư tôi viết về báo tin, mẹ mừng lắm.
Lúc tôi mười bốn, tôi siêng năng, làm lụng việc nhà, việc HTX đỡ đần cho mẹ. Mẹ cầm tay tôi, hỏi. Sau này lớn lên con làm gì. Con sẽ đi bộ đội đánh giặc, được gặp bố. Hai bố con trên một chiến hào. Mẹ không nói gì, ánh mắt xa xăm, chắc là đang nhớ bố.
Rồi bố về. Chiến tranh chưa kết thúc, bố đau khớp xương nên không còn tham gia đánh trận được. Đi học về thấy mẹ đang ôm một chú bộ đội, quân hàm đỏ thắm, ba lô bạc màu.  Mẹ thì thổn thức không nói năng gì. Tôi ấm ức lắm. Mẹ bảo, bố con đó. Tôi đứng ngây ra. Ngày bố đi bộ đội, tôi mới 5 tuổi. Chẳng còn nhớ mặt bố. Không có ảnh để nhìn, chỉ nhớ bố qua lời mẹ kể và những dòng thư nhòa mực. Bố đến bên tôi, linh cảm như mách bảo, tôi ôm chầm bố, nước mắt nhạt nhòa trong niềm vui sướng.
Chúng tôi lớn dần theo năm tháng trong sự thương yêu của bố mẹ. Mẹ tôi sinh thêm hai em bé nữa. Nghiệm lời mẹ, thấy đúng. Mẹ nói số mẹ khổ. Mẹ khổ thật. Tuổi già, phải nuôi em bé, nuôi chúng tôi  đi học nghề . Mẹ lại phải quần quật chăm lo công việc.
Tôi đi dạy học ba năm, rồi nhập ngũ vào quân đội. Ngày lên đường, mẹ gói một đùm xôi to để tôi mang theo lỡ đói bụng. Mẹ ơi! Có quân đội lo rồi! mẹ chu đáo quá vậy..?.Mẹ ôm tôi vào lòng. Chà lớn hung rồi. Tôi khẽ hôn lên trán mẹ. Mẹ quay đầu quệt nước mắt. Thế là phải xa mẹ thân yêu.  Chắc rồi mẹ nhớ tôi nhiều lắm. Làm sao không nhớ được. Cứ chiều thứ bảy nghỉ dạy, đạp xe về bên mẹ, cuốc luống đất trồng rau, nhổ tóc bạc cho mẹ, kể chuyện trường lớp, chuyện người yêu. Mẹ vui lắm. Mau có cháu cho mẹ bế kẻo mẹ già không bế được. Ôi! cả một đời mẹ đã tảo tần nuôi con, giờ lại lo cho cháu…!  Mẹ bảo, sau này có con không được đánh con, con có sai trái gì thì bằng lời nói, hành động mà dạy bảo kẻo như mẹ ngày xưa… Ngày đó, tôi cùng mấy đứa bạn trong xóm rủ nhau đi trộm bưởi làng bên. Chủ nhà bắt được về mách mẹ. Thế là bị một trận đòn “chí mạng”, tất cả những giận dữ mẹ trút lên cây roi. Tôi đau quá bỏ chạy. Mẹ đuổi theo nhưng không chạy kịp. Mẹ khóc. Tôi thấy thương mẹ lắm. Thế rồi…lẽo đẽo theo mẹ về, mẹ tắm rửa, nấu cơm cho tôi ăn. Đêm đó, trong căn hầm chữ A tôi cứ thút thít không ngủ được. Mẹ  ngồi bên xoa lằn roi. Tôi giận nên tránh tay mẹ. Bàn tay mẹ thô ráp xoa lên lằn roi cũng làm cho tôi dịu nỗi đau. Mẹ nói, mẹ đã đánh con đau, mẹ cũng đau. Mẹ đau vì con không ngoan, học cái thói cắp vặt. Tôi ân hận lắm, rồi cầm tay mẹ hỏi. Sao tay mẹ sần cục thế này. Mẹ nói, đó là “cục tương lai” của các con đó!. Tôi không hiểu mẹ nói gì, nhưng giờ thì đã hiểu. Bàn tay chai sạn với bao nỗi nhọc nhằn làm lụng mẹ đã dành tất cả cho tương lai chúng tôi. Tiếng bom nổ ầm ầm đâu đó. Mẹ cứ đi ra, đi vào còn tôi đã  chìm trong giấc ngủ.
Năm tháng đã kéo mẹ về với tuổi già. Tóc mẹ bạc nhiều hơn. Bóng mẹ ngắn lại…Rồi mẹ đi xa. Xa biền biệt con cháu. Cái ngày mẹ về với tổ tiên, mẹ còn dặn. Cố gắng làm ăn lương thiện, nuôi con cái thành người là mẹ yên tâm ra đi.
Giờ đây, ngồi ngắm lại những bức ảnh mẹ xưa, tôi cảm nhận được cái vất vả pha chút hạnh phúc mà mẹ đã dành cho chúng tôi. Mẹ ơi! Mỗi năm trôi qua sự hy sinh của mẹ ngày càng rõ hơn, từ sợi tóc bạc đến sự mệt mỏi hiện trong mắt mẹ,  chẳng thể che giấu được, mẹ đã hy sinh cả cuộc đời để cho chúng con có ngày hôm nay. Với tấm lòng thành, tôi cảm phục mẹ, và không chỉ riêng mẹ tôi mà cả những người mẹ trên thế giới này thật vĩ đại, cao cả. Hình ảnh mẹ tôi thật thiêng liêng và cao quý, là động lực tinh thần cho tôi tiếp bước trong cuộc sống hôm nay. Mong linh hồn mẹ được thanh thản nơi suối vàng. Mẹ ơi…!

Nguyễn Đại Duẫn
Hội viên Hội VHNT Trường Sơn
Tiểu khu 5, thị trấn Quán Hàu, H: Quảng Ninh, T: Quảng Bình



READ MORE - MẸ TÔI - Nguyễn Đại Duẫn

THAO THỨC VỚI ĐÊM - Thơ - Vũ Trầm Tư

Tác giả Vũ Trầm Tư


Thao Thức Với Đêm


Thao thức cùng với đêm
Tiếng lá rơi bên thềm
Gió lùa qua khe cửa
Ngỡ rằng bước chân em


Ngày rời xa thành phố
Ánh mắt buồn trông theo
Mùa thu còn ở lại
Lá vàng chợt rơi mau


Hai phương trời xa lắc
Có nhớ cũng đành thôi
Đời chia đôi nhánh khổ
Men đắng đọng bờ môi


Một lần về chốn cũ
Nhà xưa vẫn còn đây
Em theo chồng năm trước
Nỗi buồn tôi ai hay!


Thiếu em chiều mưa vội
Rơi rụng lá sầu đông
Thời gian không dừng lại
Con đò đã sang sông


Vũ Trầm Tư
READ MORE - THAO THỨC VỚI ĐÊM - Thơ - Vũ Trầm Tư

NGHĨ THÊM TỪ “MẠ TUI” - Nguyễn Khắc Phê



                                  Nhà giáo Nguyễn Viết An Hòa


BÊN LỀ MẠ TUI

Ở đời có những cái hạnh duyên, thiện duyên hy hữu, kỳ thú.
Nhà văn cao niên Nguyễn Khắc Phê là gương mặt rất quen thuộc của văn giới Huế nói riêng và cả nước nói chung. Tui và "trưởng lão" có biết nhau chút ít từ 20 năm trước. Nhưng cũng như nhiều thân hữu khác, ông không hề biết tui là Nguyễn Viết An Hòa.
Sáng 23.8.2018, khi tui đón tiếp, chuyện trò với khách đến dự ra mắt tự truyện "Mạ tui", ông có vẻ sốt ruột hỏi: "Anh Kế nì, sao không thấy anh An Hòa đâu cả hè?". Tui ôm chầm ông. "Dạ thưa anh, em đây ạ". Ông trố mắt hơi ngạc nhiên và ánh lên niềm vui...
Cách đây mấy hôm, sau khi tạp chí Sông Hương tháng 10.2018 phát hành, tui đã nhận được email bài nầy của bậc niên trưởng quan tâm đến đàn em...
Xin chân thành cám ơn tác giả tự truyện nổi tiếng " Số phận không định trước" (2016) và xin trân trọng giới thiệu bài:

NGHĨ THÊM TỪ “MẠ TUI”

(Đọc “Mạ tui” - Tự truyện của Nguyễn Viết An Hòa, NXB Thuận Hóa, 2018)
                                                            Nguyễn Khắc Phê

      
             Nhà văn Nguyễn Khắc Phê
                        
Nhiều người đến dự buổi giới thiệu Tự truyện “Mạ Tui” do Tạp chí Sông Hương và Trung tâm Văn hóa Phật giáo Liễu Quán phối hợp tổ chức không biết Nguyễn Viết An Hòa (NVAH) là ai, nhưng khi Ban Tổ chức cho hay đó là bút danh trên Facebook (FB) của thầy giáo Nguyễn Viết Kế, thì đều vui vẻ thốt lên: “À…” Trong giáo giới và nhiều thế hệ học sinh, sinh viên - ít ra là ở Huế - Nguyễn Viết Kế là một tên tuổi được kính nể. Từ năm 1974, anh đã là Chủ tịch Ban Đại diện sinh viên Đại học Sư phạm Huế; và 35 năm (1977-2012) anh là người thầy dạy văn được hàng chục ngàn học sinh trung học yêu mến, ngưỡng mộ - từ Pleiku Tây Nguyên xa ngái đến các Trường Đặng Huy Trứ, Nguyễn Trường Tộ (Huế)… Hơn thế, thầy Kế là người có lắm… “tài”, hăng hái hoạt động đoàn thể, biểu diễn văn nghệ, nên có nhiều “fan”, đến mức học trò ở Tây Nguyên làm đám cưới, cũng mời bằng được thầy Kế vào “dẫn chương trình.” Trong Tự truyện, bên cạnh những “tổng kết” với rất nhiều thành tích về giáo dục, thầy đã dẫn chương trình trên 300 đám cưới!...



Nhưng trong làng văn, NVAH thuộc hàng… “cây bút mới”, tuy anh đã xuất bản một số sách như “Kể chuyện các đời vua nhà Nguyễn” (sưu tầm - biên soạn, NXB Đà Nẵng, 1994), “Hướng dẫn sinh hoạt ngoài giờ” (NXB Thanh niên, 2001), “Luyện thi Tú tài Văn” (viết chung, NXB Thuận Hóa, 1996), “Nhịp chày thác nước” (Thơ in chung, Sở VHTT Gia Lai Kontum, 1980). Với một cuộc đời phong phú như thế, nên Tự truyện tuy mang tên “Mạ tui”, nhưng ôm chứa rất nhiều số phận, nhiều điều gợi chúng ta suy ngẫm về thế sự, về đạo làm người…
1.- Hiện đại chuyên chở “cổ tích”:
Có lẽ cũng nên nói đôi điều về “xuất xứ” tác phẩm. Thiên hạ làm văn từ FB không hiếm, nhưng tác phẩm văn học đầu tay của thầy giáo NVAH trước ngưỡng cửa “thất tuần” xuất hiện gần như 100% nhờ có FB vẫn đáng gọi là độc đáo. Khi biết người mẹ sống thọ hơn một thế kỷ đang ở bên cửa tử, tác giả đã miệt mài qua 700 đêm, viết nên 100 số “Mạ tui” đưa lên FB và đúng vào lễ Vu Lan báo hiếu PL 2562 - 2018, đồng thời là Lễ Tiểu tường (1 năm Mạ đi xa), cuốn sách “Mạ tui” được giới thiệu trân trọng với đông đảo độc giả ở Huế. Nhà văn Trần Thùy Mai - người cùng trưởng thành từ “lò” Đại học Sư phạm Huế trước 1975 như NVAH - trong lời “Tựa” cho tác phẩm đã viết: “Tự truyện Mạ tui này là một lăng mộ tinh thần vô giá mà NVAH dâng cho mẹ. Ít người con nào làm được như anh…”
Ở một khía cạnh khác, qua trường hợp “Mạ tui”, chúng ta có cách nhìn đúng đắn hơn về FB nói riêng và “mạng xã hội” nói chung. Đã từng có không ít chỉ trích FB và mạng xã hội hay tung tin thất thiệt, nhảm nhí, gây “nhiễu” dư luận…; nhưng với “Mạ tui”, công nghệ hiện đại đã “chuyên chở” ngon lành những câu chuyện “cổ tích”, ít ra đã truyền đến hàng ngàn độc giả khắp mọi miền những vẻ đẹp truyền thống của dân tộc đang có nguy cơ bị tàn phá bởi lối sống đua chen chạy theo hưởng thụ vật chất. Với “Mạ tui”, chúng ta hiểu ra, FB cũng như “mạng xã hội” và công nghiệp hiện đại không có “lỗi” gì. Vấn đề là con người sử dụng chúng phải có bản lĩnh, có cốt cách văn hoá…
2.- Một con người bình thường vẫn chứa đựng một phần lịch sử:
Sau khi đọc các hồi ký và tự truyện của Phan Thị Thu Quỳ (“Áo tím đồi sim”), Bảo Cường (“Sau một cuộc đời”), Trương Thị Thu Cúc (“Những người muôn năm cũ”), Song Cầm (“Cánh chim trong bão tố”), tôi đã nêu vấn đề “Tự truyện không chỉ dành cho người nổi tiếng”. Với “Mạ tui” của NVAH, một lần nữa, điều này được khẳng định. Tuy vậy, trong cuộc tọa đàm "Hồi ký - chuyện đời, chuyện người và trào lưu xã hội" do Sống - thương hiệu sách tác giả Việt của Alpha Books tổ chức hồi tháng 6 năm 2018 tại Hà Nội mà sau đó nhiều báo chí đưa tin, xem ra các diễn giả và dư luận chỉ chú ý đến tự truyện của người nổi tiếng, những người làm nghệ thuật trong showbiz... có nhiều độc giả nhưng cũng từng bị chỉ trích về tính chân thật và nhất là các tình tiết xúc phạm đến những người xung quanh. Những điều đó cũng như những cuộc tình “tay ba”, “tay tư” gây scandal là có thật, chủ yếu diễn ra trong giới nghệ sĩ, diễn viên; tự truyện của họ chủ yếu đáp ứng sở thích những kẻ tò mò hậu trường các “ngôi sao”, chứ không hẳn có giá trị về văn chương, càng không nêu được các vấn đề xã hội, lịch sử của đất nước.
Gần đây, chính một số hồi ký, tự truyện của những người chưa nổi tiếng, không thuộc giới “showbiz” lại đạt được những giá trị đó, tiêu biểu như “Lính bay” của Phạm Phú Thái (viết về các chiến sĩ không quân) và “Chuyện lính Tây Nam” của Trung Sĩ… Tôi không có ý so sánh “Mạ tui” với 2 tác phẩm vừa dẫn, nhưng có thể gọi đây là “dòng” tự truyện viết từ lớp người “cơ sở”, nền tảng của xã hội (thời M. Gorki thì gọi là “Dưới đáy”) - những trang sách không nhiều “mầu mỡ” như của giới “showbiz”, cũng thiếu tầm “vĩ mô”, nhưng đầy ắp chi tiết chân thật của cuộc sống, của lịch sử.
Người mẹ trong “Mạ tui” là một con người bình thường - rất bình thường, chỉ có “chức vụ” duy nhất là mẹ của 9 đứa con, suốt năm tháng chạy chợ “đầu tắt mặt tối, đòn gánh đè vai… bàn tay chai sạn, bàn chân nứt nẻ vì nắng mưa gió chướng”; vậy mà qua cuộc đời bà và những người con - kể cả mấy người “con-dâu-hụt” - cũng đều là người bình thường, chúng ta như được gặp lại, được sống lại những năm tháng đầy biến động của dân tộc. Nói cách khác, những con người bình thường trong “Mạ tui” vẫn chứa đựng một phần lịch sử.
Nhiều năm qua, do dân tộc ta liên tục phải trải qua chiến tranh tàn khốc nên nói đến “lịch sử”, hầu như ai cũng nghĩ là phải có cảnh bom rơi đạn nổ. có các sự kiện đấu tranh bên thắng bên thua; trong “Mạ tui” cũng có những điều đó (xin trình bày phần sau), nhưng “lịch sử” còn là việc gìn giữ nguồn cội, truyền thống văn hoá một vùng đất, nền nếp gia phong… Trong cuộc đấu tranh hai phe dai dẳng, người mẹ trong “Mạ tui” không đứng về bên nào, tưởng như bà ở ngoài dòng chảy lịch sử hào hùng và bi tráng của dân tộc trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ - ngoại trừ một lần vào dịp Tết Mậu Thân 1968, bà phải ôm con đi sơ tán kèm với nắm rơm ủ ấm cho mấy mẹ con. Vậy nên “công lao” lớn nhất của bà trong giai đoạn lịch sử đầy biến động của dân tộc vừa qua là nuôi dưỡng, giáo dục đàn con, xây dựng một gia đình “ngũ đại đồng đường” theo khuôn phép của một “tín đồ Phật giáo thuần thành; từ nhỏ Mạ đã theo bà ngoại đi chùa làng An Hòa tụng kinh niệm Phật…. Đã thọ “thập thiện giới ăn chay một tháng mười ngày…”; nhờ đó, bà đã đưa gia đình vượt qua bao sóng gió, cùng tiến bước với xã hội cho đến ngày hôm nay. Đây là một sự nghiệp không thể xem thường, thậm chí là quan trọng, khi chúng ta nhận ra vấn đề giáo dục trong gia đình ảnh hưởng rất lớn đến công cuộc xây dựng một xã hội tốt đẹp, khi không ít người “bất ngờ” thấy ra nhiều khía cạnh “tích cực” trong đời sống xã hội ở Lào và Miến Điện - hai nước xem đạo Phật như là “quốc giáo”...
Đọc mấy trang hồi ức của Nguyễn Viết Huy - cháu nội đích tôn của bà - viết ở phần cuối cuốn sách, nhắc lại những bài học về sự tiết kiệm, về sự nhường nhịn mà bà răn dạy con cháu hàng ngày, chúng ta càng thấy giá trị “công lao” của người mẹ bình thường ở làng An Hòa phía Bắc thành Huế vừa ra đi ở tuổi 104…xuân!
3.- Bàn cờ chính trị, Tôn giáo, Tình yêu & số phận con người:
Tự truyện của NVAH dành khá nhiều trang viết về những cuộc tình dang dở của mình khiến “Mạ tui” thêm sức cuốn hút bạn đọc. Nhà văn Trần Thùy Mai, trong lời “Tựa” có nhận xét: “Thật là “trong cái rủi có cái may”, sự lận đận tình duyên của anh, làm cho mẹ anh âu lo thấp thỏm suốt chục năm trời, nay lại trở thành kho vốn liếng để anh xây dựng nên hàng trăm trang viết hấp dẫn…”
Điều tôi quan tâm hơn là các chuyện tình trắc trở của anh không phải để “câu khách”, càng không phải kiểu tình yêu chụp giật hay buông thả, chạy theo danh lợi của không ít người trong “giới showbiz” từng bị dư luận chỉ trích; tình yêu ngang trái của NVAH không thiếu vẻ đẹp mà chính tác giả gọi là “Mối tình thơ” và “Chuyện tình xuân”, nhưng rồi bất thành vì sự trớ trêu của số phận. Đó là một cách nói ngắn gọn thôi, còn những chuyện tình tan vỡ của NVAH không chỉ khiến người trong cuộc và bà mẹ già của anh buồn đau mà còn gợi chúng ta nghĩ đến bao điều về thân phận con người trước những đổi thay trên bàn cờ chính trị, về sự ràng buộc tình yêu đôi lứa vì tín ngưỡng tôn giáo…Đã có nhiều tác phẩm viết về sự cô đơn của con người trước những va đập của lịch sử; với các trường hợp của NVAH, chúng ta xót xa vì cảm thấy các “guồng máy” hầu như không chút bận tâm trước sự tổn thương, đổ vỡ của mỗi số phận; và trong hoàn cảnh đó, con người tỏ ra thật là yếu ớt. Các học trò yêu đã trách thầy Kế yếu đuối và chính tác giả cũng tự nhận mình không đủ mạnh mẽ để vượt qua trở lực. Nhưng có ai đó đã nói rằng vẻ đẹp thường yếu ớt (như một bông hoa hồng, một tiếng đàn thánh thót trong đêm…) rất dễ bị “tổn thương”; mà con người là một vẻ đẹp - tác phẩm kỳ diệu của tạo hóa - con người đang sống như trong mơ với mối tình đẹp, càng dễ bị xiêu đổ. Giá như mọi người hiểu điều đó và biết quan tâm, biết gượng nhẹ khi buộc phải đụng chạm đến mỗi số phận con người!
Trên thế gian, không ít người chỉ một lần thất tình đã tìm đến cái chết, NVAH thì “quá tam ba bận” phải “giương cờ trắng” trong cuộc tìm con dâu cho mẹ. Lần đầu, với một nữ sinh Đồng Khánh, vào lúc “giao thời” của lịch sử Việt Nam: Năm 1974, chàng vay tiền mẹ nàng để tổ chức Đêm Sư phạm hàng năm vào dịp Tết, dự tính khi nhận học bổng sinh viên sẽ trả. Nhưng ai ngờ, sau 26/3/1975, “Huế giải phóng và… học bổng sinh viên cũng được “giải phóng” luôn!” Ban Đại diện thì chỉ mình chàng ở lại Huế “chịu trận”. Thế là Mạ phải “bán gần hết tra lúa được chừng gần một cây vàng” cho con trả nợ. “Làm cái Ban đại diện chi cho khổ cả nhà rứa con ơi!... Trời ơi là trời, trời không có mắt !”
Quả là chỉ có kêu… Trời, chứ biết hỏi ai? Biết trách ai bây chừ!
Lần thứ hai, với người đẹp làng Ngọc Anh (Phú Vang) mặc cho chàng “xách ba lô cơm đùm gạo bới… đi nhận nhiệm sở ở vùng đất bazan có cúc quỳ vàng”. Mối tình nồng thắm bất chấp khoảng cách không gian và không “môn đăng hộ đối” - nàng là Tôn nữ (dòng dõi Tôn Thất), đặc biệt hơn nữa là thân phụ nàng đang phải “cải tạo” ở Bình Điền! Vậy mà đôi bên đã vượt qua bao nghi ngại, cho làm lễ ăn hỏi, nhưng sự đời, ai học hết chữ “ngờ”! Đúng lúc chàng và nàng tình ngày làm lễ cưới thì tin như “sét đánh ngang tai”: Chính quyền “quyết định trưng thu ngôi nhà, vườn tược 2000 mét vuông, chỉ để lại căn bếp và 100 mét vuông cho gia đình, mẹ em đã ngất xỉu…” Thế là tan nát một mối tình đẹp vì “với ba em, tui là “cán bộ Đoàn, người của cách mạng”, đáng căm ghét... Ta đành phụ nhau em ơi!...”
Cũng chỉ có kêu… Trời, chứ biết hỏi ai để phân giải được sự đúng-sai? Biết trách ai đã làm cho đôi trẻ khóc hết nước mắt vì biệt ly bây chừ!
NVAH thì hiểu nghĩa vụ người con trai độc nhất của mẹ, thấy mình có lỗi để mẹ già mãi mong chờ cô dâu hiền, nên dù đang đau đớn vì chia tay nàng Tôn Nữ làng Ngọc Anh đến mức mang bệnh dạ dày, chàng lại “dấn thân” vào cuộc tình lần thứ ba với cô y tá chăm sóc chàng tại bệnh viện. Cũng nhờ đám học trò xứ sở hoa cúc vàng vun vô và nàng lại là người Huế lên xây dựng Tây Nguyên như chàng. Lo cho con đau ốm và chắc cũng nóng lòng muốn biết mặt con dâu tương lai, người mẹ già cùng bà chị NVAH, không quản đường xa còn đầy trắc trở hồi đó, bới đùm quà bánh lên Gia Lai. Bà chưa kịp mừng thấy cô y tá đẹp người tốt nết thì đã hoảng hồn khi biết cô theo đạo Thiên Chúa và đã ăn “bánh Thánh”. “…Răng mi lại để cho hắn ăn? Ăn thứ nớ vô là như ăn bùa mê thuốc lú mi nạ…” Trong suy nghĩ rất đơn giản mà nghiệt ngã của Mạ tui, không thể có chuyện kết hôn với người ngoại đạo. Bởi vì Mạ sợ lấy vợ, lấy chồng như thế là bỏ đạo luôn. Mà bỏ đạo tức là bỏ thờ cúng, bỏ hương khói ông bà tổ tiên. Bất hiếu!” Thế là chuyện tình đẹp với Thánh nữ miền cao nguyên tan vỡ ngay sau “Đêm Thánh vô cùng” mùa Giáng sinh năm đó!...
Lại chỉ còn biết kêu… Trời, chứ biết hỏi ai, rằng Đạo nào cũng dạy con người điều thiện mà sao nỡ chia lìa đôi lứa đang yêu? Và biết trách ai bây chừ!
NVAH còn “trắng tay” trong cuộc tình lần thứ 4 với nàng “Radio” xinh đẹp, ngâm thơ hay trên Đài Phát thanh Gia Lai. Mà đâu chỉ NVAH, trong “Mạ tui” còn có một số nhân vật chịu đựng mất mát, bất hạnh vì thời cuộc đảo lộn khiến người đọc không khỏi xót xa. Như người chị của tác giả, “mồng 4 Tết Mậu Thân 1968, chồng chị là lính “Xây dựng nông thôn” chế độ miền Nam về nghỉ Tết, sau đó thì đi tải thương cho bộ đội…” rồi mất tích; chị mòn mỏi chờ đợi suốt gần 50 năm, ở vậy nuôi hai cháu khôn lớn và chăm sóc mẹ già… Cặp đôi “thầy trò lớp Toán” cũng có cuộc tình thật đẹp trên đất cao nguyên, nhưng rồi thầy theo gia đình vượt biên, trò mỏi mắt chờ đợi mãi, thi đại học thì không đậu vì lý lịch(!), rồi cũng phải “chọn lấy một trong những người đàn ông theo mình bấy lâu làm chồng dù nàng không yêu. Trái tim nàng rớm máu…” Gần 40 năm sau, họ tình cờ “gặp lại nhau trong một quán cà phê nổi tiếng giữa phố núi mù sương… trong tiếng hát của ca sĩ Thái Thanh “Còn chút gì để nhớ, để quên”…”
Nhưng thôi, chỉ 3 cuộc NVAH “lỡ đò” cũng đủ để chúng ta phải suy ngẫm về những bất trắc và sự “vô thường” trên đường đời không phải lúc nào cũng êm đẹp. Một tác phẩm đầu tay, đặt được vấn đề như “Mạ tui” khiến người đọc phải 3 lần “chỉ còn biết kêu …Trời”, là một thành công không nhỏ của NVAH.
***
Còn có thể nêu ra một số điều đáng chú ý trong “Mạ tui”, như cách sử dụng tiếng địa phương khá “đậm đặc”, nhưng không làm độc giả khó hiểu mà lại tạo được “không khí” Huế rõ nét; về kết cấu truyện, Trần Thùy Mai khen tác giả “sáng tạo khi thỉnh thoảng lại cắt lớp thời gian, kéo người đọc về thời hiện tại”, nhưng thực ra, đây là thủ pháp nhiều cây bút đã thực hiện rất giỏi; còn cách “xen kẽ” chuyện “xưa-nay” của NVAH có chỗ chưa… khéo, hơi “xôi-đỗ”, mặc dù trong các “lát cắt” đan xen có những “màn” thú vị như cuộc gặp thầy trò “Có thể nào quên” tại Pleiku sau gần 30 năm xa cách, với chuyến bay trở lại Huế có thể là “độc nhất vô nhị” bằng chuyên cơ H.344 của người học sinh cũ đã thành nhân vật nổi tiếng Bầu Đức (“sếp” Tập doàn Hoàng Anh Gia Lai) do anh hùng không quân Nguyễn Thành Trung cầm lái!…
Cuộc đời vốn bất toàn, sao có thể đòi hỏi sự toàn bích của một tác phẩm đầu tay, lại sinh thành từ những trang FB, nhất là khi tác giả phải chạy đua với thời gian để có sách kịp ra vào ngày giỗ đầu của mẹ - mùa Vu Lan báo hiếu. Được biết thành công của NVAH đã đưa “Mạ tui” vượt không-thời gian, đến với nhiều độc giả ở xa Huế và tác giả đã phải “nối bản”. Thật vui khi sách ra mùa Vu Lan sẽ được đọc cả… bốn mùa!
Hy vọng sau thành công này, NVAH với sự từng trải trên đường đời sẽ tiếp tục đi xa trên đường văn…

                                                         Nguyễn Khắc Phê

(Bài vừa in trên Tạp chí “Sông Hương”, số tháng 10/2018)

READ MORE - NGHĨ THÊM TỪ “MẠ TUI” - Nguyễn Khắc Phê