Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Monday, September 24, 2018

NHỊP ĐỜI THÂN THƯƠNG ... - Phan Nam đọc thơ Nguyễn Thị Kim Anh




Nhịp Đời Thân Thương…

Đêm ngày 14.9, tại quán café ROYAL (số 9, Lê Duẩn, Đà Nẵng) diễn ra buổi ra mắt tập thơ Nhịp đời thân thương (NXB Văn học 2018) của tác giả Nguyễn Thị Kim Anh, hiện tác giả đang sinh sống tại Đức Phong, Mộ Đức, Quảng Ngãi.

Kim Anh (ngoài cùng bên trái) cùng các bạn thơ tại quán cà phê Royal, Đà Nẵng.

Tác giả Kim Anh bị khuyết tật bẩm sinh từ nhỏ, thế nhưng chị đã vượt lên số phận bằng chính nghị lực đáng quý, chị đã vịn câu thơ đứng dậy để viết tiếp ước mơ của mình với hai tập thơ Nhật ký thời gian (NXB Văn học) và bây giờ là tập Nhịp đời thân thương. Tập thơ được trình bày khá đẹp và trang nhã, gồm 69 bài thơ trong hơn 100 trang in. Đọc thơ Kim Anh để cảm nhận tiếng lòng của người con gái luôn hướng về cái đẹp, niềm tin và khát vọng: Đẹp gì cố gắng sẽ nên/ Tựa như hoa nhỏ mang tên xương rồng (Yêu đời). Phần không thể thiếu trong thơ chị là nỗi niềm đồng cảm với những số phận giống như mình, những con chữ như rút ruột ra để viết, khiến người đọc cảm thông và đồng cảm: đó là những phận người bán vé số lang thang trên hè phố, những đứa trẻ phải xa nhau khi bố mẹ ly hôn, những bà mẹ mong ngóng đứa con làm ăn ở phương xa chưa về, những đứa trẻ mồ côi “sống tạm trú dưới khung trời bất hạnh”, những người cùng chung hoàn cảnh khuyết tật như tác giả nhưng luôn đong đầy nghị lực sống, hòa nhập và cống hiến hết mình cho xã hội.

Tác giả Diễm Phượng, trong lời tựa mở đầu tập thơ Nhịp đời thân thương nhận xét: “Kim Anh làm thơ không phải để thi thố tài năng mà là để thể hiện những cảm xúc, những yêu thương em gom nhặt được từ cuộc sống. Thơ bình dị, mộc mạc, cách viết, cách cảm mang dáng dấp của những câu chuyện kể gần gũi thân thương, giọng thơ hiền hòa như lời tâm sự, nhắn gửi…”. Cảm xúc bất chợt với cảm đẹp quê hương, khoảnh khắc giao mùa tươi đẹp chan hòa vẻ đẹp sự sống luôn ẩn hiện trong tâm thức của biết bao thi nhân tự bao đời nay, một lần nữa được thắp sáng trong thơ Kim Anh, nhẹ nhàng, tình tứ nhưng cũng tràn đầy thi vị: Tháng Hai đến mặt trời lên chiếu rọi/ Nắng ửng hồng từng ánh chói xa xôi (Tháng Hai đến), Vệt nắng bên thềm chói chang/ Đồng quê lúa chín ngả xanh vàng/ Kìm sim trổ nụ xuân vừa khép/ Đấy phượng bung chồi hạ đã sang (Giao mùa), Lòng cảm động nên chưa tả hết/ Bởi tình quê thống thiết vậy mà/ Việt Nam tổ quốc bao la/ Dòng đời lắng đọng đậm đà chẳng quên (Hè quê), Vào Sa Huỳnh cũng lắm cảnh thiên nhiên/ Đức Phổ đó bạn hiền mê chụp ảnh/ Bãi cát lại pha màu vàng óng ánh/ Cùng cánh đồng sát cạnh muối trắng tinh (Du lịch quê em).

Bên cạnh đó là những vần thơ mộc mạc, chân chất xuất phát từ chính tâm sự, nỗi lòng trong sâu thẳm trái tim nhân hậu, vị tha của tác giả hướng về đấng sinh thành: “Con biết mẹ, con biết cha/ Hằng ngày vất vả nhưng mà chẳng than/ Sáng xuống ruộng, chiều lên ngàn/ Làm bao là việc gian nan cả đời” (Cha mẹ), lời tự vấn của tác giả rung động lòng người: “Mẹ mang một nắng hai sương/ Đem ra chợ đổi làm đường con đi” (Mẹ em). Phần cuối tập thơ là mảng tình buồn dung dị nhưng cũng rất đáng yêu: Ước gì anh đến chiều nay/ Hoa đỏ trao tay em tặng/ Để em có dịp tỏ bày/ Trao gửi trái tim trong nắng (Ước gì). Thơ là cầu nối yêu thương của tất cả mọi người, với tác giả Kim Anh chiếu cầu ấy chính là động lực, là nguồn sống của chị: Mang số phận ngậm ngùi cay đắng/ Thôi thì mình cố gắng vượt qua/ Yêu thơ kết bạn một nhà/ Nối vòng tay lớn cho ta bớt sầu (Số phận).
PHAN NAM


READ MORE - NHỊP ĐỜI THÂN THƯƠNG ... - Phan Nam đọc thơ Nguyễn Thị Kim Anh

Về CHÂN DUNG 99 NHÀ VĂN VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI - Nguyễn Đăng Hành




Về
CHÂN DUNG 99 NHÀ VĂN
VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
*
Tôi từng đọc chân dung các nhà văn đương đại của Xuân Sách, Đỗ Hoàng, Trần Nhương, Hồ Bá Thâm… Con số có tới hàng ngàn, nghe đâu trên ba ngàn khuôn mặt “danh giá” đã được ra lò, trong lúc hiện nay Hội nhà văn Việt Nam tổng thể chỉ có hơn ngàn.
Nay lại được chiêm ngưỡng 99 chân dung nhà văn Việt Nam đương đại của nhà thơ Nguyễn Khôi. Chà chà…. Mỗi người mỗi vẻ: Xuân Sách quả là chín rưng rức, tràn trề thăm thẳm, góc cạnh sắc sảo, uyên thâm, uyên bác; Đỗ Hoàng đa năng táo bạo, giọng điệu sàng xê bay nhảy thủy hỏa tương giao; Hồ Bá Thâm dò dẫm dàn dựng, gắng gượng đưa đẩy; Trần Ngọc Sơn đều đều cần mẫn trơn tru tuồn tuột; Trần Nhương tự tin khôn khéo dụng công trau chuốt, công năng dàn trải,… Mỗi ông đều là những vị thủ kho mẫn cán, thu thập hồ sơ tên tuổi tác phẩm quá khứ hiện tại rồi lắp ghép, sắp đặt thành chân dung, thoáng đọc thoảng nghe cũng thỏa mãn cái tò mò, bức xúc nhưng xem kỹ đọc nhiều thì nhàm nhạt, ngấy ngộ... Theo tôi, đã là chân dung thì phải lột tả, phác thảo, khắc họa khuôn mẫu, cũng như thợ vẽ thợ ảnh phải đứng ở góc độ, chớp đúng thời cơ mà vẽ, mà chụp cái thần sắc để thành ảnh sống động, khí sắc thăng hoa, rồi mà treo ngắm, thưởng lãm... Còn bác Nguyễn Khôi nhà ta thì sao? .... Có lẽ bởi cái bóng cái tán của Xuân Sách, cái áp lực của 200 công trình bài bản kỳ khu của Trần Nhương... nên tác phẩm của bác phần nhiều viết bằng chí năng, lấy sự kiện sự việc, sự thật các câu chữ số phận của mỗi “nhà” rồi sắp đặt thành “chân dung”. Ngay cái tít Chân dung 99 nhà văn Việt Nam đương đại đã thấy rầm rộ quá, giá tác giả hạ bút đặt tên Thoáng nét người văn tôi tâm ý  thì sẽ nhẹ nhàng, dễ cảm hơn. Dù sao tôi cũng vô cùng cảm phục lão thi sĩ, lý do đầu là ở cái tuổi lẽ ra cụ cứ ngự lãm trà rượu, cháu chắt hầu hạ ấy thế mà cụ vẫn dồn công lực làm nên tác phẩm lưu danh hậu thế. Thứ hai là cụ đã thẳng thắn, khảng khái không kiêng sợ các “đền đài thần thánh” một thời thiêng liêng ngự trị. Thứ ba là từ trái tim nhân hậu, tâm hồn khoáng đạt và sự từng trải, tác giả dũng cảm lên tiếng bảo vệ nhân văn, nhân quyền, nhân phẩm, sự thật và dân chủ. (Đúng ra là phải dẫn chứng cụ thể nhưng vì khuôn khổ bài viết vậy mời bạn đọc tìm đọc tác phẩm của nhà thơ Nguyễn Khôi sẽ rõ: /chan-dung-99-nha-van-viet-nam-uong-ai.html.) Thứ tư, tác giả nhân ái, công tâm, giàu tin đỡ lớp trẻ, người chưa có điều kiện, tác phẩm mới lấp ló cánh cửa văn chương hoặc chưa nổi bật, chưa khác biệt đặc biệt…..

Tôi nhấm nháp thưởng lãm một số chân dung mà tôi khoái trá. Phục nhất, khoái nhất là tài nghệ của lão thi bá, chỉ dùng bốn câu gần như tứ tuyệt nó gò bó khuôn khổ, buộc bốn câu bốn chức năng “khai, thừa, chuyển, hợp”, nếu không đúng đủ bốn chức năng ấy thì bài thơ lễnh loãng, lỏng lẻo, sơ cứng, sáo mòn, nhạt nhẽo, vô hồn, thất sắc, nếu đủ đạt thì bài thơ cựa quậy, run rẩy sống động lồng lộng vô vi, ví như Chân dung số 1 - Tố Hữu: Chỉ cần 4 câu đầu đã đủ đã tuyệt rồi (Tự cho mình là Lành/ mọi người thấy rất dữ/ mác lê bọc bằng thơ/ đã đâm chỉ có tử.), cả nghĩa đen và nghĩa bóng đều đúng, rất khêu gợi, lột vẽ, khắc chạm rõ khuôn mặt. Sự cố “cây táo ông Lành”, cuộc cải cách “nhân văn giai phẩm”, một chính khách, hung thi chuyên gia Đảng - Bác đã gây nên bao nỗi hận đau sâu lụy cho văn nghệ sĩ. Thế là được rồi, cần gì khổ 2 nữa. Chân dung số 2 - Chế Lan Viên, câu kết “giấu đi mặt ma chơi”, không hiểu chữ “ma chơi” có sát nghĩa đúng hồn bài “Tháp bai on” của Chế không nhỉ? Nguyên bản là thế này: “Anh là tháp bai on bốn mặt / giấu ba mặt còn đó là anh/ chỉ mặt đó ngàn trò cười khóc/ làm đau ba mặt phía ẩn hình”. Rõ ràng cái câu hợp thứ 4 này toát lên cái ăn năn hối lỗi, dằn vặt về cái thời danh lợi, giá áo túi cơm, đó là cái thiện tâm, phật tính chứ đâu phải là “ma chơi”.

Tiếp theo, tôi xin vỗ tay chân dung mà ông phác thảo, cụ thể: Chân dung số 6 - Xuân Thủy: Hai câu đầu giản đơn kể nhắc, hai câu sau tuy không vẽ kẻ nhưng nổi bật gương mặt chính khách lịch lãm trí thức, nhân vật đặc biệt góp phần quan trọng làm nên lịch sử dân tộc, khi khúc mắc đã bật, đã phát lời tuyên ngôn bất hủ “Không giam được trí óc”, khẳng định văn nghệ sĩ phải được tự do, không bao giờ bị giam hãm, trói buộc. Đến chân dung thứ 8 - Việt Phương, đã là thi thoại giai thoại một thời. Một nhà thơ nhạy cảm nhạy bén, bản lĩnh hiên ngang cho ra “Cửa mở”: “Đồng hồ Liên Xô tốt hơn Thụy Sĩ... Trăng Trung Quốc sáng hơn trăng nước Mỹ”, “Bao giờ ta đủ tầm cao/ để ta bắt được vì sao trên trời”. Động cham một loạt nguy lụy theo bởi cái thời bao cấp mậu dịch, đồng ca minh họa, bốc thơm tụng ca lừa gạt, Nguyễn Khôi nộ, nỡm: “Ta cái gì cũng hồng/ đich cái gì cũng xám/ Trảm”. Câu kết sắc lẹm. Câu thơ yết hậu. “Trảm”, chỉ một câu ấy mà thót tim ớn lạnh, hiện ra bộ mặt lạnh ngắt sám sịt tử khí của cái thời văn chỉ điểm, văn lãnh đạo, thấp kém thô bạo. Nổi bật chân dung vững vàng bản lĩnh Việt Phương.

Chân dung thứ 9 - Hữu Thỉnh. Cái ông lắm người yêu, đầy kẻ ghét, tác phẩm cũng chỉ thường thường bậc trung, viết phục vụ chiến tranh một thời nhưng bảo “xoàng xĩnh lên ngôi” thì hơi quá. Thơ Hữu Thỉnh chẳng xuất sắc cũng đâu đến nỗi kém cỏi mà “xoàng xĩnh” thì hơi oan. “...Ghế cao anh ngồi” thì đúng quá rồi vì sao? Vì anh đã cố công chạy ngược chạy xuôi…. “Điếu văn hót tới đỉnh” chứng tỏ anh cũng phải xuôi ngược lưu tâm cố ý thì mới có “điếu văn hót tới đỉnh”. Riêng cái khoản này, cộng cái ham muốn nỗ lực và say ghế thì ghế anh ngồi cũng xứng thôi.

Tiếp đến Hoàng Cầm. Nói đến Hoàng Cầm là thấy “diêu bông”, “mưa Thuận Thành”, “Hạt mưa chèo bẻo/ nhạt nắng xuyên khoai/ hạt mưa hoa nhài/ tràn đêm kỹ nữ/ hạt mưa sành sứ/ vỡ gạch Bát Tràng... Thuận Thành đang mưa”. Nguyễn Khôi rất khéo dùng thủ pháp “Xê dịch”, chỉ thay đổi một vài con chữ, vị trí, ý tứ của Hoàng Cầm mã đã thấy rõ cuộc đời, số phận Hoàng Cầm hiển hiện ví như câu: “Váy Đình Bảng buông chùng xuống/ đâu thấy lá diêu bông”. Đã đôi lần tôi được hầu rượu nhà thơ Hoàng Cầm, tôi có hỏi: Thưa bác lá diêu bông là gì? Mặt ông chùng xuống, đăm đắm nhìn qua khung cửa... Sau một vại rượu, ông thủng thẳng: Thế ông không đọc, không hiểu câu cuối bài: Từ thủa ấy/ em cầm chiếc lá/ đi đầu non cuối bể/ gió quê vi vút gọi/ ...diêu bông hời.../... ới diêu bông. Hóm quá. Tế nhị tinh vi quá! “Váy Đình Bảng buông chùng xuống/ Đâu thấy lá diêu bông”. Vì không thấy nên ông bị 8 tháng ngồi Hỏa Lò. Hoàng Hưng vì yêu thích, cầm giữ lá “diêu bông” bị 4 năm bóc lịch. Thì “mưa Thuận Thành tầm tã” thì ông đành, ông đã, ông phải, ông lại “ngây ngất ả phù dung”.

Chân dung 14 - Trần Dần. Một tài thơ nổi trội, một nhân cách chân chính nói tiếp qua 2 câu thơ: “Tôi khóc những chân trời.../...Những người bay không có”. Ta nhớ 2 câu thơ nổi tiếng của Trần Dần: “Tôi khóc những chân trời không có người bay/ Tôi khóc những người bay không có chân trời”. Câu thơ ẩn dụ ám ảnh khiến ta liên tưởng tới cái xã hội đương thời... Đời là thế đấy. Người bay thì không có chân trời. Chân trời thì không có người bay. Ôi thương xót cho nền văn học, số kiếp văn nhân của thời đã qua. Trần Dần đau đớn xót xa cho thế sự nhân sinh, ông kiên cường tin tưởng vững chắc vào chân chính làm nên tác phẩm “Nhất định thắng... công toi”. Xin thưa! Công không toi đâu. Tài năng và sự can trường hy sinh đã để lại cho đời tác phẩm giá trị. “Cổng tỉnh” đã được giải của Hội nhà văn Việt Nam rồi mà.

Chân dung 15 - Lê Đạt. Lê Đạt là người cùng thời, cùng họa với Phan Khôi, Trần Dần, Phùng Quán, Phùng Cung, hoàng Cầm... Thất thời gặp họa lâm nạn, tù túng thiếu thốn lấy thơ làm nỗi sống niềm sống, ông tỉ mẩn kỳ công đắp vẽ mổ sẻ lai ghép, lắp ghép, thử nghiệm, sáng tạo kiểu thơ riêng, ông gọi là “bóng chữ”, người “phu chữ”, âm thầm cần mẫn đẽo tỉa, cấy ghép đã thành công đáng kể, dẫu đã nhiều phen e chề, thất bại. Nguyễn Khôi ở gần cái tuổi thời ấy nên dễ hiểu và đồng cảm, nắm vững giải mã được “bóng chữ” của Lê Đạt nên thấy: “Đẽo/ tỉa bay mất hồn/”, nhưng Nguyễn Khôi vẫn ngờ vực hỏi: “Người chết/thơ còn, hết?/ “Đường chữ” nẻo cô thôn”. Đường chữ là tác phẩm. Câu trên hỏi ỡm ờ thì câu sau giải mã ngay. Thơ Lê Đạt, thấy cái thâm thúy gợi mở của Tàu, cái tích ép của Nhật, cái thực dụng của Mỹ nhưng vẫn mù mờ, ỡm ờ tốc độ súc giác của Lê Đạt. Viết đến đây tôi thấy tôi bị lan man, tản mạn quá. Sao mà đủ tài đủ sức theo đuổi dò mở dòm ngó 99 kho tàng bí ẩn huyền ngã… Vậy tự thổi còi thư bút khép lại mà thưa thớt một số vấn đề trong một số chân dung.

Thưa lão thi bá! Ở nhóm mảng tiền bối danh giá có lẽ do đặc điểm khuôn khổ khắt khe gò bó cô đọng của thể thơ tứ tuyệt nên một số chân dung chỉ thấy chân tướng, ví dụ như bài 21 - Xuân Diệu: “Đồng tính” bị đấu tố/ cụt hứng làm thơ tình/ Thôi thì ca “ngói mới”/ đi “nói chuyện thơ mình”. Nguyễn Khôi dùng tác phẩm “Đồng tính” “Ngói mới” “Nói chuyện thơ” để ghép thành bài tứ tuyệt nhưng đấy mới là thơ “tứ” nhưng chưa “tuyệt”, vì đây mới là cái chân tướng, giai đoạn, sắc thái nhất thời của Xuân Diệu chứ đâu phải là cái góc cạnh, khuôn mặt thần thái, hồn vía thơ Xuân Diệu. Hoặc Huy Cận, cái thành công vang dội trường tồn của “Lửa thiêng” và “Mỗi ngày mỗi sáng” thì thi trường và thời gian đã thử thách thừa nhận Huy Cận là nhà thơ cảm quan vũ trụ, có cảm quan nhân sinh quan tuyệt hảo ngất ngất... Sau này gia đình ông có chuyện riêng không hay lắm, Cù Huy Hà Vũ, con trai có quan điểm sống khác, dù sao đó cũng là chuyện của mỗi gia đình chứ có làm tắt “Lửa thiêng” đâu? Còn việc tên đường phố thì có cũng hay, chưa có thì cũng đừng ngạc nhiên, chớ như ai kia đã rút hai câu “Mặt trời xuống biển như hòn lửa/ Sóng đã cài then đêm sập cửa”, rồi suy diễn, áp đặt, chụp mũ thì chua chát cái sự đời quá. Hoặc 25 - Minh Huệ. Cả đời thơ ông nổi bật bài “Đêm nay Bác không ngủ”. Bài thơ của ông là tấm lòng, tiếng lòng của những người lính cảnh vệ ngưỡng mộ Bác tuyệt đối trung thành, kính trọng yêu thương Bác. Đó là cái tình đồng chí, tình cha con, sao lại “Vợ dí thơ... Tính tình...”. Có thể tác giả chỉ đùa nỡm chơi chữ vui vui nhưng đọc thấy thế nào ấy....

Chân dung 35 - Phùng Cung. Tác giả hai câu thơ: “Lênh đênh khắp nước cùng non/ Dạt vào ao cạn vẫn còn lênh đênh.” Vì cái truyện ngắn Con ngựa giá chúa Trịnh mà mắc nạn, bởi bọn “lính gác” văn chương, mấy tay chỉ điểm mong ông bị tù đày. Ra tù, nhờ Phùng Quán, Nguyễn Hữu Đang giúp đỡ cho tập “Xem đêm ra đời” Hậu thế biết cái bản lĩnh tính kiên cường qua bài thơ thể Hai Kư: “Quất mãi nước sôi/ Trà đau nát bã/ Chẳng đổi giọng Tân Cương.”, thì ta thấy cái kiếp bèo bọt của thi nhân “dạt vào ao cạn vẫn còn lênh đênh” bản lĩnh quật cường, “Trà đau nát bã/ Chẳng đổi giọng Tân Cương”. Vâng, giữ giọng, giữ bản lĩnh nhân văn nhân bản thi sĩ, chứ đâu “quất bã chè thành thơ?”!

Chân dung 29 - Bùi Giáng. Tôi không đắc ý với câu “Nghêu ngao giả cuồng điên”. Thực thì Bùi Giáng điên điên, điên tình, điên cảnh, điên thơ, điên đời... Thường thì các thi sĩ thiên bẩm thiên tài đồng bóng thăng hoa mà phát thơ. Thơ Bùi Giáng có đặc điểm là bất thường vô thường, (Chân không tới đất, cật không tới trời), lâng lâng ảo ảo, cuồng cuồng say say, nó vô định ma mị lắm. Chính thế mới tạo nên cái “Bùi Giáng”, “Trường phái thơ Bùi Giáng”, không khéo Nguyễn Khôi lại lầm như trường hợp Xuân Diệu nhận định nhầm Hàn Mặc Tử.

Chân dung 43 - Lê Lựu. Đọc chân dung này thì thấy cái chân tướng đời thường, chứ đâu là chân dung một nhà văn Lê Lựu, một Giang Minh Sài (Thời xa vắng), một Núi (Sóng ở đáy sông). Còn cái chuyện tình ái, vợ chồng, gia đình hãy cho qua, hãy phác họa, ký họa, khắc họa những nét đặc biệt, đặc trưng chân dung VĂN HỌC. Hãy hướng tới cái có, cái được, cái đạt, cái đặc biệt nổi trội của nhà văn thì văn chương hơn, nhân ái, hỉ xả hơn.

Chân dung 45 - Chân dung Nguyễn Nguyên Bảy và Lý Phương Liên…

Tiếc quá! Lại ghép hai “Nhà” cùng nhau.... Nói đến Lý Phương Liên phải nói đến “Ca bình minh”, “Tâm sự với Thúy Kiều”. Người ta không quên vụ án “Thúy Kiều” án không án, vì nhà thơ quá nhạy cảm, thông minh mẫn cảm đi trước thời đại…Nguyễn Nguyên Bảy bất tử với tuyên ngôn “Thơ là thơ không phải địa vị người làm thơ” hoặc lương tâm lý trí tư cách đạo đức tư tưởng: “Màu đỏ của máu/ màu vàng của da/ mỗi chúng ta/ là một lá cờ”. Hay sâu xa bất hủ như: “Cháy rồi, cháy hết phần thơm/ chân hương đứng lặng nỗi buồn vô vi/ rồi màu phẩm nhạt phai đi/ dẫu chẳng còn vẫn đứng chân hương”. Tâm tình, đúng nghĩa nhân lễ trí tín quá! Tài hoa bất hủ, bất tử quá quá! Đừng quên những lời thơ gan ruột này là chân dung Nguyễn Nguyên Bảy những “Ca bình minh”, “Tâm sự Thúy Kiều” là tượng đài lồng lộng thăm thẳm mênh mang Lý Phương Liên. Còn “Chàng Tư mã say thơ/ mê mùi sen phố cổ/ “chém gió giữa Thủ đô/ thơ bạn thơ” rạng rỡ”. Chỉ là bề nổi, chỉ là cái bóng thoảng của hai nhà thơ nổi tiếng này thôi.

Chân dung 47 - Dương Thu Hương. Tôi đã được đọc “Thiên đường mù”, “Bên kia bờ ảo vọng”, tôi phục trí óc của bà, tôi quý giọng văn sắc sảo biến ảo đa chiều góc cạnh của bà. Đọc số 47 Dương Thu Hương và 26 Minh Huệ tôi phục và sợ sự tưởng tượng hư cấu lồi lõm góc ngách phù thủy của Nguyễn Khôi. Nhưng vẫn buồn buồn vì những câu “Tức khí mà tắt kinh/ Thiên đường mù vẫy gọi/ Chào tỉnh lẻ vĩ nhân”…Đã tắt kinh, thì hết trứng, hết trứng thì làm sao sinh nở được nữa. “Thiên đường mù vẫy gọi” vô vọng quá! “Chào tỉnh lẻ vĩ nhân” hài bi, bi hài quá! Tất nhiên “Thiên đường mù” “Tỉnh lẻ vĩ nhân” là tác phẩm nhưng cũng là con người xã hội, thế thời thời thế…Những câu chữ rất ý tứ góc cạnh (ý tại ngôn ngoại). Nhưng tắt kinh tuy đúng, tuy lạ nằm bên, hiện lên trang giấy khó đọc quá… Lẽ ra tôi định bàn tới các nhà thơ chính, phân cao thấp. Nhưng như nói đã quá đủ trên các báo mạng rồi tôi chỉ xin thoáng qua mấy nhà thơ mà tôi có quen biết.

Kính thưa nhà văn Nguyễn Khôi - Văn Thùy không giỏi diễn dị nhân đâu. Có thể thời đầu, đoạn đầu Văn Thùy tập diễn, cố diễn sau bị con “ma thơ” đánh bùa mê thuốc lú thành “dị nhân” xịn đấy, ông gày gò, ông từ bỏ, ông mất mát đúng như bài thơ “Văn Thùy dị nhân” của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến đã lột tả. Còn “Thấy Bùi Giáng là lủi”, Văn Thùy sao dám đấu với Bùi Giáng mà “lủi”. Còn người đời ngộ nhận thì bàn làm gì? Văn Thùy có đôi nét ngoại hình, có dòng thơ lục bát nhuần nhuyễn bắt hơi nhau một chút, ví như câu “khóc người một con” trùng câu trùng ý Bùi Giáng. Cái “điên” của Bùi Giáng đâu có giống cái “bụi” của Văn Thùy. Chính Văn Thùy tự nhận là rơm rác bụi bặm rồi cơ mà. Thôi thì Văn Thùy đã được làng thơ phong “dị nhân” “Thơ bụi” cũng là lẽ tự nhiên thôi chứ “Khéo dán tem “thơ bụi” sao nổi.

Người thứ hai là bạn tôi, là thầy thơ tôi Hoàng Xuân Họa, chân dung 63: “Thơ “trong” ba lô ra trận/ Bỏ “trót một thời yêu”/”Chuyện cõi âm lạ lẫm/ Trả đời cho Chí Phèo”. Chân dung này thật 100% nhưng nhạt loãng, tuyền toàng. Cụ thể nghĩa đen, sự thực năm 1970 anh chàng tân binh Hoàng Xuân Hoa yêu thơ say thơ quý phục Ca bình minh của Lý Phương Liên. Anh chép tay cõng trên ba lô đi khắp chiến trường ABC. Qua cuộc chinh chiến ở chiến trường Nam Bắc ở trường đời anh thai nghén chửa đẻ ra “Trót một thời yêu” giọng điệu trăn trở hồn thơ chấp chới gây làn sóng lăn tăn sau chiêm nghiệm từng trải là người trong cuộc chiến, cuộc sống anh cho “Chuyện cõi âm ra đời” vừa hài vừa bi vừa hư vừa thật, nhưng rưng rưng nhưng nhức cho độc giả sau, trước cái xã hội thật như đùa cười ra nước mắt anh sinh ra “Chí Phèo đi dự Fet ti van”. Bác Khôi ơi! Bài viết của bác đúng đủ nhưng vẫn chưa rõ cái thần thái của Hoàng Xuân Họa mà ngược lại người ta hiểu lầm, tưởng sai về nhà thơ khó tính đa tài đa tật nhiều lắm, nhất là “Trả đời cho Chí Phèo” oan quá, tầm thường quá! Ngộ quá!

Ông bạn thứ ba mà tôi kiêng nể dẫu ít tuổi, chỉ hơn con lớn của tôi bốn tuổi, đó là Đặng Xuân Xuyến, chân dung số 89. Vì sao? Xin thưa. Vào khoảng những năm 1990 - 2000 xã hội mở cửa, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh tuyên bố cởi trói cho văn nghệ sĩ, các nhà văn nhà thơ thậm chí cả các nhà hưu trí nhà bất mãn đua nhau in ấn các loại văn thơ: “đâu là đôi mắt”, “Như có Bác Hồ”… Thế mà anh bạn trẻ trên tay cầm cái bằng đại học nhân văn xã hội đỏ chóe ngày đêm xem cổ, tiếp kim chiêm nghiệm thực nghiệm cho ra đời hàng loạt đầu sách mới lạ (có thể lên tới hàng trăm đầu sách với nhiều bút danh). Nổi bật gây dư luận nhất là hai tập sách, một là Giới tính và giáo dục giới tính (1997). Nội dung khoa học về đời sống tình dục và giới tính. Anh tiếp thu thành tựu của nước ngoài, kết hợp cái thực tế ở trong nước, nhất là những cái ở ta đang lấn cấn để mà thành sách, giúp người giải phóng mặc cảm, hướng tới sống khỏe, sống hạnh phúc nhưng ở giai đoạn đấy anh đi quá sớm nên ăn đòn (bị thu hồi). Tác phẩm thứ 2 là cuốn Tử Vi kiến giải, viết theo quan điểm chắt lọc những tinh hoa của tiền nhân, của Tử Vi Việt, giúp bạn đọc tiếp cận dễ hơn, đúng hơn về niềm tin tín ngưỡng của người Việt Nam thế nhưng cũng bị nhà chức trách thổi còi “đình bản”, thu hồi. Sau đó sách vẫn được truyền tay tìm đọc, vẫn được tái bản mấy lần. Đó là cái riêng, khác lạ của một đời văn, một đời người. Vậy có xứng là nhà văn có giọng văn dáng dấp đương thời đương đại không? Ấy là chưa nói anh còn viết một loạt truyện ngắn: Chuyện cu Tố làng tôi, Chuyện của gã Khờ, Kim yêu, Chuyện ngủ... được bạn đọc yêu thích, ngay chính lão thi bá Nguyễn Khôi cũng làm bài thơ 5 đoạn cảm đọc gã Khờ. Lại còn mảng thi ca. Dẫu thơ anh chậm xuất hiện nhưng đã gây ấn tượng bởi cái giọng điệu sắc lạnh, tốc độ, tứ ý ngồn ngộn tự nhiên, đầy tâm trạng, đủ chân thiện mỹ như: Bạn Quan, Quê nghèo, Tôi nghe, Ru con, Tim đau, Mơ trăng, Tình Nở... Nhất là thơ tình đầy trăn trở. Bêlin Xiki nói: “Chỉ cần anh có cái giọng riêng đã đáng là một nhà thơ rồi.”. Vậy mà bác Nguyễn Khôi nhà ta đã nghuệch ngoạc vẽ thế này: “Buôn sách và viết sách/ Vui gà trống nuôi con/ làm tình “cưỡng” không thích/ Thơ như thời trai son.”. Thực quá dễ dãi, quá trơn tuột. “Buôn sách”, “gà trống nuôi con”, “làm tình “cưỡng” không thích” thì đâu phải chân dung, phải chăng chỉ là về đời thường chứ đâu là cái hồn cốt, cái chân dung để đời của nhà văn?!
Chân dung 97 - Vũ Từ Trang. Nhà thơ này trắng trẻo đẹp trai điềm đạm. Thơ hay văn giỏi. Anh rất coi thường thơ tôi. Anh thường bảo thơ tôi là thơ con cóc. Vâng. Tôi rất bực mình và tự ái nhưng tiếp cận thơ anh tôi cụt lủi. Thơ anh rất hiện đại nhưng ý tứ gợi mở ám ảnh như bài: Chiếc đồng hồ cũ, Cái ghế, Thăm nơi sơ tán…. Một loạt bài rất hay, không thiếu chất suy tư chiêm nghiệm, triết lý rất Đông Á. Thơ anh và văn anh đăng rất nhiều trên báo trung ương và địa phương, gây nhiều hiệu ứng trong xã hội. Cuốn Phía sau con chữ, chân dung văn học ông viết nhẹ nhàng, chân thật, sống động, có chiều sâu, có bề dầy. Anh là người “vua biết tiếng chúa biết tên”. Ấy thế mà Nguyễn Khôi nhẹ nhàng “vô tư” viết: “Vươn lên từ chủ doanh nghiệp/ Từ chân báo thủ công/ Văn chân dung chân thật/ Thơ ngọt khế Sặt Đồng”. Thơ Vũ Từ Trang không chỉ ngọt khế Sặt Đồng, còn có cả chua chát đắng cay tràn trề dân dã, lóng lánh trí thức, ấn tượng cổ kim... Bác Khôi khắc họa chưa đạt chân dung thơ văn đã đắc đạo của Vũ Từ Trung.

Người thứ 5 mà tôi biết là Nguyễn Thanh Lâm, chân dung số 86: “Đêm tỏa Hương dương cầm/ Nghe mưa trên mái cổ/ Siêu thoát trong rừng tùng/ Thơ lang thang bát phố.”. Ba câu đầu ít nhiều có hồn vía nhà thơ Nguyễn Thanh Lâm nhưng câu thứ tư “Thơ lang thang bát phố” thì e không đắt, không hợp với Nguyễn Thanh Lâm, người nặng về tâm linh tĩnh tại. Thơ Nguyễn Thanh Lâm có chất thiền định, nghe mơ hồ bâng lâng vô vi thi vị. Với con người điềm đạm cân bằng sâu xa an lạc và dòng thơ du dương cuồn cuộn nồng đậm ấy chẳng bát phố đâu.

Đang viết thì chuông điện thoại đổ gấp. Tôi nhấc máy nghe, đầu dây bên kia là giọng của ông bạn thơ tuổi đã cao niên: - “Alo! Ông Hành có được tặng 99 nhà văn đương đại của Nguyễn Khôi không? Có cái bìa 2 lạ lắm. Nhà văn Nguyễn Khôi cưỡi ngựa xem hoa, không biết là ý gì nhỉ?”. Tôi vội mở điện thoại ra xem, quả lão thi nhân vẫn phong độ chững chạc lắm. Áo véc tím hồng, khuôn mặt ngây ngây, mủm mỉm cười, tay phải đút gọn túi áo, tay trái vịn cành đào hoa nở rực rỡ. Tôi vội trả lời: - “Ồ không phải là cưỡi ngựa xem hoa mà là vin hoa đút túi….”.

Định viết thêm nhưng tôi thấy thế cũng đã nhiều nên tạm dừng bút.
Vâng. Tôi cứ lẩn thẩn với những suy nghĩ trong đầu: giá thi sĩ Nguyễn Khôi đọc kỹ thêm nữa những tác phẩm của các “chân dung” mà viết 99 chân dung thì tác phẩm sống động hơn, các chân dung ấy sẽ trường tồn hơn...
*
Khoan Tế, tháng 06.2017
NGUYỄN ĐĂNG HÀNH
Địa chỉ: Thôn Khoan Tế, xã Đa Tốn
huyện Gia Lâm, tỉnh Hà Nội.

Điện thoại: 0166.467.78.26
READ MORE - Về CHÂN DUNG 99 NHÀ VĂN VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI - Nguyễn Đăng Hành

TÌNH NHƯ RƠM RẠ - Truyện ngắn - Thủy Điền



Tình Như Rơm Rạ
Truyện ngắn
Thủy Điền

Tiếng chuông cửa reo.........!
Lão đang ngã người, lim dim trên chiếc ghế. Giật mình! Nhè nhẹ bước ra mở cửa.
-Chào bố!
-Thế ra là anh.
-Vâng.
-Bảo đã đi từ mấy hôm rồi kia mà, sao bây giờ còn trở lại đây?
-Đúng, là con có đi thật, con có đến chỗ của Yenni và đã trả lời dứt khoát với cô ta là con không thể.
-Thế bây giờ anh quyết định như thế nào?
-Thưa bố! Con đồng ý.
-Thế thì tốt, thôi anh cứ về nghỉ đi, tôi sẽ bàn tiếp chuyện nầy với anh trong những ngày tới.
-Vâng, chào bố.

      Lão là một Bá tước giàu có nhất làng. Ngự trị trong một tòa lâu đài sang trọng được bao quanh hàng ngàn hécta rừng, đất và những của cải khác. Lão có hai bà vợ và duy nhất hai chàng con trai. Tất cả đều sống chung quanh trong khu vực tòa lâu đài. Mọi công việc sinh hoạt từ văn phòng đến nhà bếp đều có nhân viên làm việc và phục vụ.

      Con trai lớn của lão là Kortan năm nay 36 tuổi là một kỹ sư lâm nghiệp. Công việc hàng ngày của hắn là đi thăm rừng, nghiên cứu trồng trọt và khi rảnh rổi là đi săn bắn tìm vui. Cách đây hai năm hắn quen với Burty con gái của một gia đình giàu có làng bên, trong dịp làng treo giải ai là người săn bắn giỏi nhất năm. Sau một năm yêu nhau hắn và Burty đồng ý kết hôn. Chỉ trong một thời gian ngắn Burty đã có thai. Điều nầy làm cho cả gia đình hắn rất vui, người vui nhất chính là bố hắn. Ông luôn hy vọng sẽ có một cháu trai đầu lòng để nối giồng. Nhưng không may, ngay giữa đêm khi cùng đoàn người đi săn bắn theo thường lệ vào dịp cuối tuần, hắn bị một nữ thợ săn cùng nhóm bắn lầm một phát đạn vào ngực và hắn bị chết tại chỗ. Khi chôn cất xong, cái thai của Burty càng ngày càng lớn dần, cảnh sanh nở sắp cận kề mà không có cha bên cạnh là nỗi lo âu rất lớn của gia đình ông bà Ramberg.

      Vì lợi ích của gia đình. Trong lúc Verbert em trai của Kortan đang yêu Yenni, chàng cũng muốn cùng nàng tương lai sẽ trở nên duyên phận. Nhưng trước sự cản trở của gia đình, buộc chàng phải xa cách Yenni để thành hôn với chị dâu mình là Burty. Đã bao lần chàng chống cự lại sự oái oăm ấy, Nhưng bất thành.

      Một hôm chàng quây lại với Yenni, nàng mừng rỡ, cứ ngỡ chàng vẫn chỉ có mình. Nhưng ai ngờ! Chàng vừa khóc vừa nói lời chia tay. Trong nghẹn ngào đau xót Yenni như kẻ mất hồn, nàng đuỗi chàng ra khỏi cửa và lái chiếc xe đi mà chẳng biết đi đâu, nàng lái thật nhanh, điên cuồng, xem cái chết nhẹ như lông hồng.

      Trong cơn đau, Verbert vẫn cắn răng, gục mặt chấp nhận trước cha gìa để cùng Burty nắm tay nhau quỳ dưới chân thánh giá để bảo toàn một gia sản thênh thang.

      Bên kia sông Yenni như một kẻ mất trí, rối loạn, khóc suốt canh thâu khi nhìn thấy cảnh đời đen bạc đang diễn ra trước mắt nàng và một xã hội hữu lậu còn tồn tại của một kẻ giàu sang, thế lực, xem tình người như rơm rạ giữa đồng hoang.

Thủy Điền

21-09-2018
READ MORE - TÌNH NHƯ RƠM RẠ - Truyện ngắn - Thủy Điền

MƠ QUÊ TRONG “XÓM CỎ” CỦA NGUYỄN KHÔI - Đặng Xuân Xuyến

Nhà thơ Nguyễn Khôi


MƠ QUÊ TRONG “XÓM CỎ
CỦA NGUYỄN KHÔI
*
 XÓM CỎ
"Khóm tre già đợi gió đứng bên ao"
- Anh Thơ
(Tặng: Đặng Xuân Xuyến)



Mơ... được bỏ Cao Tầng về Xóm Cỏ
Ngồi bờ đê hít thở với sông dài
Ngắm dáng con đò trước cầu cao ngạo nghễ
Bãi ngô non thấp thoáng bóng ai...
.
Ta là kẻ lạc loài chán chê Phố Thị
Chàng Nhà Quê mê kéo vó đêm
Thả hồn thơ cùng chị Hằng "tăm" cá
Cánh tay trần "cất" cả ánh trăng lên...
.
Ta muốn quên cái thời đang biến động
Chỉ vài hôm đã sạch lũy tre làng!
Cánh đồng xanh đã thành Đô Thị Mới
Ở giữa quê như chẳng có Quê Hương?!
.
Còn chút hẻo lẻ loi chòi Xóm Cỏ
Ta ra đây ngụ với Bác cu Bần
Nuôi vịt, trồng rau...xuống sông kéo vó
No cái mùi Hoa Cỏ nức hương xuân...
*
Bắc Ninh, 12 tháng 03.2016
NGUYỄN KHÔI



LỜI BÌNH:
Lẽ thường, người ta mơ "từ quê" được "ra tỉnh", để được sống không khí náo nhiệt, sầm uất nơi phố xá, thị thành, thì nhà thơ Nguyễn Khôi lại mơ bỏ phố về làng, ngược với lẽ thường của nhân thế:
Mơ… được bỏ Cao Tầng về Xóm Cỏ
Ngồi bờ đê hít thở với sông dài
Ngắm dáng con đò trước cầu cao ngạo nghễ
Bãi ngô non thấp thoáng bóng ai...
Nhà thơ tự nhận mình "là kẻ lạc loài chán chê Phố Thị" nên mới mơ khác lẽ thường ở đời: "bỏ Cao Tầng về Xóm Cỏ", để được là:
Chàng Nhà Quê mê kéo vó đêm
Thả hồn thơ cùng chị Hằng "tăm" cá
Cánh tay trần "cất" cả ánh trăng lên...
Những câu thơ đẹp, hàm súc và tươi tắn chất thôn quê.
Những hình ảnh lãng mạn mà khỏe khoắn, phóng khoáng mà dung dị đời thường của “Chàng Nhà Quê” đượm hồn quê trong giấc mơ quê. 
Tôi ngẩn ngơ với câu: “Cánh tay trần “cất” cả ánh trăng lên...”.
Nét tài hoa của nhà thơ Nguyễn Khôi ở những câu thơ này là sử dụng câu chữ rất "đắc địa", đặt đúng vị trí, đúng hoàn cảnh, đúng ngữ cảnh, không thể xáo trộn, thay đổi. Ví như câu: "Cánh tay trần "cất" cả ánh trăng lên..." nếu bỏ hoặc thay chữ "trần" bằng một chữ khác thì hình ảnh "cánh tay trần" rất đẹp, gợi nét vạm vỡ, phong trần và đậm đặc chất đàn ông sẽ không còn nữa, câu thơ sẽ thiếu “lửa”, nhạt đi và kém hay. Hoặc nếu thay từ "cất" bằng một từ khác thì câu thơ: Cánh tay trần “cất” cả ánh trăng lên...” vốn hút hồn người đọc bởi hình ảnh thơ mộng, đẹp phóng khoáng kiểu Chử Đồng Tử an nhiên tự tại giữa bãi Tự Nhiên:“cất” cả ánh trăng lên...” sẽ không còn nữa, câu thơ cũng vì thế mà mất hay, hết duyên.
Ta đọc tiếp khổ thơ thứ 3 xem nhà thơ nói gì:
Ta muốn quên cái thời đang biến động
Chỉ vài hôm đã sạch lũy tre làng!
Cánh đồng xanh đã thành Đô Thị Mới
Ở giữa quê như chẳng có Quê Hương?!
Ồ. Thì ra nhà thơ mơ bỏ Phố Thị về Xóm Cỏ là xót xa vì sự đô thị hóa "lũy tre làng" nhanh quá, khủng khiếp quá, còn hơn cả tằm "ăn rỗi": “Chỉ vài hôm đã sạch lũy tre làng”. “Mái rạ, bờ tre”, nét đặc trưng bao đời của làng quê Việt chỉ trong "chốc lát" đã biến mất. Câu “tắt lửa tối đèn có nhau” sâu nặng tình làng nghĩa xóm "ngoảnh đi ngoảnh lại" chắc cũng chẳng còn ý nghĩa. Nhà thơ xót xa, "muốn quên cái thời đang biến động" nhưng làm không được, khiến nhà thơ rưng lệ, ngậm ngùi: "Ở giữa quê như chẳng có Quê Hương?!"
Chẳng có đau xót nào lớn hơn khi "Ở giữa quê" mà "như chẳng có Quê Hương?!". Một dấu hỏi, một dấu chấm than đặt ở cuối câu như mũi khoan xoáy vào thẳm sâu nỗi xót xa khi nhà thơ phải chứng kiến sự đổi thay đang tàn phá chất quê, hồn quê của “cái thời đang biến động”.
Nhà thơ dồn liên tục, liên tục tâm trạng xót xa của kẻ cô đơn, lạc lõng bằng một loạt tính từ: "chút", "hẻo", "lẻ loi"... đặt liền nhau, đứng trong cùng một câu thơ, để sự cô đơn, nỗi bi thương, tuyệt vọng của kẻ vô gia cư ngay trên chính quê hương mình thẩm sâu vào trái tim người đọc. Ôi, đã "còn chút hẻo", nhà thơ lại bồi thêm hình ảnh "lẻ loi" của "chòi Xóm Cỏ" trong cùng một câu: Còn chút hẻo lẻ loi chòi Xóm Cỏ”, rồi nhấn nhá thêm bằng giọng ngạo nghễ, bông đùa: “Ta ra đây ngụ với Bác cu Bần.”. Khiến người đọc se lòng với những quặn thắt: Có ai thất thế ra nhập nhóm người vô gia cư lại thản nhiên như vậy? Có ai sa cơ "nhập hội" mấy "bác thằng bần” lại bỡn cợt như thế? Không. Đấy là nhà thơ đang cố mượn giọng bông đùa để bỡn cợt, giấu đi nỗi đau đang bóp nghẹt trái tim. 
Ở 2 câu cuối, ở khổ thơ khép lại bài thơ, nhà thơ lại vẽ tiếp một giấc mơ quê, một giấc mơ không thể đơn giản hơn nữa, không thể nhỏ bé hơn nữa bởi những hình ảnh trong ước mơ rất đời thường, đời thường đến lam lũ mà đau đáu những khát khao trong trẻo của hồn quê, chất quê:
Nuôi vịt, trồng rau...xuống sông kéo vó
No cái mùi Hoa Cỏ nức hương xuân...
Ôi, giấc mơ giữ lại chút hồn quê, chất quê của nhà thơ Nguyễn Khôi, hay đúng hơn là nhà thơ cất tiếng nói thay ước mơ giữ lại được chút hồn quê, chất quê trên mảnh đất thôn quê, của những người dân lam lũ mà nặng lòng da diết với quê hương, ở “cái thời đang biến động" này sao mà lệ mặn ngược vào tim?!
Bởi, là mơ đấy, là khao khát chỉ “tầm thường” thế đấy mà cũng e khó thành!
Ôi! Những giấc mơ quê trong thời đại kim tiền!
*
Hà Nội, chiều 23 tháng 09 năm 2018
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
.
READ MORE - MƠ QUÊ TRONG “XÓM CỎ” CỦA NGUYỄN KHÔI - Đặng Xuân Xuyến

GỞI VỀ EM / KHÚC RU - Thơ - Tịnh Đàm

Tác giả Tịnh Đàm


GỞI VỀ EM 
(Gởi đến Kim Chi, Gò Công, để nhớ một thời yêu dấu ...)

Gởi về em những ước mơ,
Mà tôi còn giữ đến giờ chưa quên!
Người xa xôi... Ngỡ gần bên
Vẫn nghe thương mến gọi tên ngọt ngào.

Gởi về em nỗi khát khao,
Khi xưa tôi đã gởi trao tặng người.
Tình yêu rót mật cho đời,
Để môi thơm ngọt những lời dấu yêu.

Gởi về em mộng dáng kiều,
Bao năm ấp ủ với nhiều nhớ thương.
Một hôm nhìn lại trong gương,
Thấy tôi , ánh mắt buồn vương tím hồn!

KHÚC RU

Vẫn tôi,
Cất giọng bùi ngùi,
Thơ ngâm cảm khái...Buồn vui đời mình!
Bận lòng chi...
Kiếp phù sinh!
Cứ an nhiên với...mắt nhìn bao dung.

TỊNH ĐÀM

(HÓC MÔN, TP.HCM.)
READ MORE - GỞI VỀ EM / KHÚC RU - Thơ - Tịnh Đàm

SƠ KHẢO NGÔN NGỮ MIỀN TRUNG - PHẦN NĂM: TIẾNG QUẢNG - Chế Cẩm Đình

Tác giả Chế Cẩm Đình


SƠ KHẢO NGÔN NGỮ MIỀN TRUNG
Chế Cẩm Đình

PHẦN NĂM: TIẾNG QUẢNG

Giọng nói, được cho là để phân biệt vùng ngôn ngữ hơn là bằng từ ngữ. Giọng nói của một người hay một vùng được hình thành chủ yếu là “nghe sao nói vậy”. Như đứa trẻ con mới tập nói đang ở đâu thì khi nghe tiếng nói của vùng đó nó sẽ tự nói theo, chứ không vì gốc gác hay nơi sinh, hoặc do hòn đất mạch nước gì cả. Một người lớn lên rồi, qua vùng đất khác sinh sống, lâu dần cũng có thể bắt chước theo người ta nơi ở mới nói một cách tự nhiên giọng nói của xứ đó, như người bản xứ, bằng cách gò miệng uốn lưỡi để nhả âm theo lối lỗ tai mình nghe thấy được.
Người Bắc nói giọng mũi, nhả âm rất nhanh. Khi nói thì mở miệng vừa phải, lưỡi và vành môi dừng cử động đột ngột ở cuối âm tạo ra từng tiếng rất chắc và rõ. Người Khu Bốn nói năng chậm rãi, ngôn ngữ có điệu tính cao. Khi phát âm thì dùng giọng họng, nhả âm chậm, miệng mở to theo phương dọc, giảm hơi vào cuối mỗi từ làm cho âm nhỏ dần. Trong câu nói thì tiếng trước đan xen tiếng sau một cách líu ríu mà chỉ những người trong cùng một vùng mới quen nghe và hiểu được. Đây là lời giải thích vì sao người miền Bắc nói thì ai cũng hiểu, mà người Khu Bốn nói thì phải giải thích đi giải thích lại mấy lần cho người khác miền, dù nói rất chậm.
Nếu như ngoài kia Thanh Hóa là nơi chồng lấn giữa hai vùng ngôn ngữ “giọng Bắc tiếng Trung”, thì sự chuyển tiếp giọng nói từ đầu cuối vùng ngôn ngữ Khu Bốn là Thừa Thiên Huế sang Quảng Nam hầu như không có, mà đó là một sự thay đổi đột ngột ngay khi chúng ta vượt qua ngọn đèo Hải Vân hùng vĩ chắn ngang trên con đường thiên lý về cả mặt thời gian lịch sử lẫn không gian địa lý. Chính con đèo này là tác nhân tạo ra hai vùng “giọng” khác biệt nhau hoàn toàn ở hai phía của nó, dù cùng một thứ tiếng Việt với nhau.
Cổ dân Quảng Nam hình thành chủ yếu từ các sắc dân Hời, Việt và Minh Hương vào thời trung cận đại. Người Hời bản xứ cư ngụ từ xa xưa trên vùng đất này, khi người phía bắc Việt theo các cuộc Nam tiến di dân vào đây bằng cách mở ra các cuộc chiến tranh xâm lấn thì số đông người Hời vẫn ở lại trên đất cũ thay vì chạy tràn qua các tiểu quốc khác nằm kề phía trong. Bên Trung Hoa vào thế kỷ 17 nhà Thanh của người Mãn Châu thiểu số chớp cơ hội lên nắm quyền thay nhà Minh, dẫn đến một làn sóng di dân người Hoa “phản Thanh phục Minh” theo ngõ biển Đông tràn ra khắp Đông Nam Á và xâm nhập vào những cuộc đất mới mà nơi đó chính quyền còn lỏng lẻo để lập nên những làng xóm (hương) mới nên gọi là người Minh Hương. Hội An nói riêng hay các thị tứ khắp vùng Quảng Nam nói chung được người Minh Hương lựa chọn làm nơi sinh sống mới khá nhiều. Trong truyện ngắn “Ông Năm Chuột” của nhà văn Phan Khôi, cháu ngoại của vị tổng đốc đáng kính Hoàng Diệu có mô tả rất rõ về một nhân vật người Minh Hương tên là Tám Thứ, cư dân mấy đời ở trong ngôi làng Bảo An của ông, thuộc huyện Điện Bàn, Quảng Nam. Chi tiết này là minh chứng rất rõ về sự hình thành dân cư - làng xã ở Quảng Nam có sự hiện diện của dòng người đến từ các tỉnh Quảng Đông, Phúc Kiến bên Tàu, mang theo tiếng nói và chất giọng của họ đến góp vào làm ngôn ngữ xứ Quảng “méo” đi nhiều so với tiếng Việt chuẩn ở ngoài Bắc hay là tiếng Việt vùng Khu Bốn, cũng là nơi có sự ở lại của người Hời, hợp sinh với người Việt tiến vào sớm hơn, dĩ nhiên khi đó chưa có sự góp mặt của người Tàu.
Người xứ Quảng phát âm bằng giọng họng, giữ căng từng âm trong câu nói chứ không xuống hơi cuối từ như người Khu Bốn. Khi phát âm thì máy môi nhanh, nhả âm nhanh, miệng mở rộng theo phương ngang, cuống lưỡi hơi uốn và ít khi xát vào vòm hòng, rìa lợi hoặc mặt trong của hàm răng trong quá trình phát âm. Nhìn bên ngoài sẽ thấy rõ cơ hai gò má của người nói gồ lên chuyển động linh hoạt theo từng âm chứ không "cứng mặt". Tất cả những yếu tố đó tạo ra một thứ giọng Quảng khác biệt hoàn toàn so với người Khu Bốn hay người Bắc.
Vì phát âm bằng giọng họng và giữ căng nên "tiếng âm” người Quảng phát ra hơi trầm ồ, nhưng lại nghe rất rõ từng âm tiết. Tuy vậy để hiểu được từ ngữ tiếng Quảng thì không phải dễ, bởi là vùng hỗn ngữ từ các sắc dân khác nhau như đã nói trên nên từ tiếng lạc âm khá xa so với tiếng Việt chuẩn, đặc biệt là hiện tượng “méo” nguyên âm:
a > oa: ba > boa, nhà > nhòa, bà già > bòa giòa
ai > ưa: hai > hưa, gái > gứa, tái > tứa (một số nơi)
am > ôm: xe lam > xe lôm, càm ràm > cồm rồm
ang > eng: Đà Nẵng > Đòa Nẽng
ao > ô: cái bao > cái bô, bao gạo > bô gộ
ăn > en(g): ăn cơm > eng cơm
ăt > tét(c): tắt đèn > téc đèng
âu > ao: con sâu > coong sao
Một ví dụ khác, muốn phát âm cụm từ “lốp xe đạp” bằng tiếng Quảng Nam thì chỉ cần nói lái thành “láp xe độp”. Hay câu chuyện có mấy người đi buôn lậu đang gùi hàng qua trạm thì một người bị ong đốt hét to lên “công an, công an” làm cả đoàn vứt bỏ hàng hóa tháo chạy, đoạn ngoái đầu lại thì không thấy ai cả bèn hỏi người kia sao la lên vậy làm mất hết hàng hóa, thì người kia mới nói là bị ong chích, hoảng quá nên hét lên. Trong câu chuyện này từ “con ong” được phát âm là “coong ang” gần giống như từ “công an” vậy.
Chính vì có nhiều âm bị "méo" như vậy nên đi đâu người Quảng cũng thường hay bị trêu đùa tiếng nói của mình. Và để “đáp trả” sự trêu chọc đó, họ sẽ mắng một câu còn đậm đặc tiếng Quảng hơn nữa: “Chửi choa khoong bèng phoa giạng nghe mi"!
Phải nói là, tiếng Quảng quá đặc sắc và thật đáng yêu vậy!


Chế Cẩm Đình
READ MORE - SƠ KHẢO NGÔN NGỮ MIỀN TRUNG - PHẦN NĂM: TIẾNG QUẢNG - Chế Cẩm Đình