Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Monday, May 28, 2018

VỌNG TIẾNG BUỒN - Thơ Nhã My Nhạc, hòa âm và trình bày Nguyễn Hữu Tân, video clip Huỳnh Tâm Hoài


  


    VỌNG TIẾNG BUỒN
    Thơ: Nhã My
    Nhạc, hòa âm và trình bày: Nguyễn Hữu Tân.
    Video clip: Huỳnh Tâm Hoài

 
                        Nhã My                               Nguyễn Hữu Tân và Huỳnh Tâm Hoài

                 
BUỒN

buồn, ngơ ngác thả theo chùm mây lạc
phố lên đèn những đóm đỏ, đóm vàng
tay run rẩy chạm từng vùng ký ức
thơ vụng về theo con chữ lang thang

mây thì trắng và hồn đau cũng trắng
gió trùng phương có ngừng lại nơi này ?
em huyền dịêu ẩn chìm bờ mộng mị
ta vói tìm đau đáu mấy màu trăng

buồn, lặng lẽ dối mình như chẳng biết
em vô tình như con nước êm trôi
chiều tản mạn bến  bờ xưa heo hút
nước vẫn trôi biền biệt nhánh sông đời

ta cứ hỏi biết em về phương ấy
lối mù xa còn đọng chút ân tình ?
hay cứ để dư âm lời thương nhớ
vọng tiếng buồn ta nghiêng ngả  hư hao !

                                         NHÃ MY
READ MORE - VỌNG TIẾNG BUỒN - Thơ Nhã My Nhạc, hòa âm và trình bày Nguyễn Hữu Tân, video clip Huỳnh Tâm Hoài

LY BIỆT, ĐÊM, CHIỀU TÀN BÊN LY RƯỢU - Thơ Nguyên Lạc


         
                          Nhà thơ Nguyên Lạc

LY BIỆT

Còn đây. một chút muộn màng
Em đem dâng hết. kẻo. tang thương về
Đốt tình. cháy trọn đam mê
Rồi quên đi nhé. lời thề bền lâu!

Chắc gì có kiếp đời sau?
Thì thôi. ta hãy. cho nhau kiếp này!

Con chim tiếng hót ai bi
Người rồi ly biệt. chút gì. hiền lương?


ĐÊM

Đêm trao thân là thật?
Tình luôn là trăm năm?
Người có là mãi mãi?
Rượu cạn
sầu sao không?!?

Đêm lạnh dài rất thật!
Tình đã rồi hư không!
Nhớ chi
người khuất mất!
Cho mộng sầu căm căm!

Tìm chi
tình đã mất?
Để đêm vọng muôn trùng?!


CHIỀU TÀN BÊN LY RƯỢU

Nhân sinh mấy thuở vậy người?
trọn tình tri kỷ. tuyệt vời giao bôi!

Thì thôi. chén rượu riêng đời
Vui con bướm mộng*
quên lời thế gian!

Bể dâu. cùng với điêu tàn
phế hưng. hưng phế
mây ngàn vẫn bay!

Say?
Ừ!
ta đã đang say
cố quên. oán hận ai bày!
Được không?

Tâm kinh. Phật dạy vô thường
Sao tôi riêng mãi. một phương trời nào?!?

Buốt lòng. trường ấy. ve kêu
phượng hồng nở đỏ
lời yêu thương mùa ...!
Phượng ơi. hồng đỏ dáng xưa?
Hay là miên viễn. tự mùa thương đau?!

Chiều nay. nhớ bến sông nào
lập lòe Đóm gọi. khóc nhau bên trời
tiễn ai. xứ lạ xa xôi!
Xót người ở lại
biết rồi gặp nhau?!?

Chợt buồn. trời bỗng thẩm màu
Một cơn gió lạnh. thổi vào tim ai!

Thôi thì. túy luý rượu này
Đắng. cùng lệ mặn
cố say kẻo rồi...!

Đêm về. chỉ một người thôi!
Một người
đêm. chỉ mình tôi!
và Người!

Nguyên Lạc 
............

(*) Mộng hồ điệp 
- Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh - Nguyễn Du

READ MORE - LY BIỆT, ĐÊM, CHIỀU TÀN BÊN LY RƯỢU - Thơ Nguyên Lạc

CHÙM THƠ CHU VƯƠNG MIỆN VỀ CHU MẠNH TRINH


         


CHU MẠNH TRINH

bầu trời cảnh bụt
thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay
nay quan án nhà được đổi về đây
nên vội vã sai người làm
mua hoa biếu tiên sinh Tam Nguyên Yên Đổ
vốn ít học, người làm mua hoa trà đang nở
và lề mề mang chậu hoa dâng
cụ Tam Nguyên ngửi hoa không thấy mùi hương
vì mắt đã lòa từ lâu không nhìn thấy
ôm chậu hoa hữu sắc vô hương
mà chợt thấy buồn ?
-
người Việt làm án sát làm thơ
về phong cảnh Hương Sơn
dửng dưng lòng yêu nước
không Tàu
không Pháp
dửng dưng
sống cho qua ngày
làng nhàng


GẶP THỜI

dậu đổ bìm leo
được thời được thế thì hơn
sa cơ rồng có khác giun chút nào ?
cọp sa cơ nơi ruộng đồng
bị bọn muông cẩu coi thường
vì tiết tháo từ quan
bị nhiều chó liếm mặt
-
lão quan Tam Nguyên
tam tổng đốc hưu già
bị quan kinh lược sứ Hoàng Cao Khải
"con của Cao Bá Quát"
hạnh họe rồi giam nơi biệt phủ
bị quan huyện Hưng Yên Lê Hoan
ép làm giám khảo thi vịnh Kiều
lại được quan án Chu Mạnh Trinh
biếu hoa không có mùi
hết thời đồ cổ ngang đồ đất
củ khoai ngang củ lạc

KHÔNG

không biết thế nào là buồn
là vui
cõi tu là trọc đầu
cõi tục là để tóc
-
miếu và cây đa
đều do người ta dựng và trồng lên
sống lâu năm dựa lẫn nhau
cây đa càng ngày càng xum xuê
và thần bỗng dưng thiêng
và có cặp rắn có mào ở dưới hang
chỉ là ảo
mà đâm ra thiêng
-
quan già mù hết thời về hưu
quan trẻ sáng mắt tới
nước bị đô hộ
mù sáng gì cũng vậy ?
chỗ nào cũng xích xiềng
chốn nào cũng hèo gậy
vua là vua bồ chao
quan là quan phường chèo
xem chán phèo

CHU VƯƠNG MIỆN

READ MORE - CHÙM THƠ CHU VƯƠNG MIỆN VỀ CHU MẠNH TRINH

NHỮNG THÀNH NGỮ CÓ XUẤT XỨ TỪ THƠ CỔ ĐIỂN VÀ ĐIỂN CỐ (Kì 26) - Nguyễn Ngọc Kiên


                  Tác giả Nguyễn Ngọc Kiên

NHỮNG THÀNH NGỮ CÓ XUẤT XỨ TỪ THƠ 
CỔ ĐIỂN VÀ ĐIỂN CỐ (Kì 26)

(83) 十羊九牧  [thập dương cửu mục] (chín người chăn 10 dê). Thành ngữ bắt nguồn từ một câu chuyện về bản tấu trình mà một viên quan cao cấp đưa lên cho hoàng đế Trung Quốc cổ đại. Câu thành ngữ chứa đựng trí tuệ và kiến thức vẫn còn hữu dụng cho các nhà quản lý trong thời hiện đại.

Khoảng 1.500 năm trước, Trung Quốc đang ở trong thời kỳ hỗn loạn kéo dài hơn 100 năm, đất nước bị chia cắt thành hai phần nam – bắc, mỗi phần lại bị cai trị bởi các triều đại ngắn ngủi. Chiến tranh và bất ổn xã hội đã diễn ra liên tục, nhưng đây cũng là thời điểm hưng thịnh của nghệ thuật, văn hóa và tôn giáo. Giai đoạn này được gọi là Nam – Bắc triều (420 – 581 sau Công nguyên).
Sau thời Nam – Bắc triều, triều đại nhà Tùy (581 – 618 sau Công nguyên) được dựng nên bởi vua Tùy Văn Đế, người đã thống nhất Trung Hoa lần đầu tiên sau hơn một thế kỷ phân chia nam bắc.
Vua Tùy có một số quan thân cận trung thành hỗ trợ việc nước. Một trong số đó là Yang Shangxi (sống vào khoảng 533 – 590 sau Công nguyên).
Yang nhận thấy một số khó khăn trong việc quản lý đất nước. Có quá nhiều châu huyện và quan lại cấp châu huyện, do phân chia khu vực hành chính để lại từ triều đại trước. Vì vậy, hầu hết các quan chức chỉ chịu trách nhiệm ở một khu vực nhỏ, hoặc không có thực quyền và không hữu ích.
Tình trạng này không chỉ gây ra gánh nặng chi phí cho triều đình, mà còn là trở ngại cho việc thực hiện công việc suôn sẻ. Yang cảm thấy rất lo lắng, vì vậy ông đã thảo một bản tấu trình lên nhà vua.
Yang viết: “Hiện này có quá nhiều huyện và quá nhiều quan lại, giống như có tới 9 người chỉ để chăn 10 con dê. Điều này khiến triều đình chịu nhiều chi phí và làm tốn thời gian thực hiện công việc.
“Việc giảm số lượng các huyện và quan lại là ưu tiên hàng đầu đối với quốc gia. Thần xin đề xuất duy trì các khu vực hành chính hợp lý, và cử những quan lại có năng lực tới những nơi thực sự cần. Đối với những vị trí phải giảm bớt, có thể cho họ những công việc khác.”
“Những thay đổi này sẽ làm giảm đáng kể chi phí cho triều đình và giúp điều hành công việc quốc gia hiệu quả hơn.”
Sau khi đọc bản tấu trình của Yang, Tùy Văn Đế đã sử dụng những lời tâm huyết của vị quan và thực hiện một loạt những cải cách tập trung, đưa đến kết quả rất khả quan.
Câu chuyện này nằm trong phần tiểu sử của Yang Shangxi trong cuốn “Tùy Thư” (1). Cụm từ “Thập dương cửu mục” trong bản tấu của ông lên vua Tùy sau này đã trở thành một thành ngữ.
Thành ngữ này có thể dịch theo nghĩa đen là “có 9 người chăn 10 con dê”, và dùng để miêu tả một tình huống trong đó có quá nhiều người ra lệnh và không đủ người thực hiện.
Nó cũng truyền đạt tầm quan trọng phải xây dựng hệ thống phân quyền rõ ràng, mạch lạc trong việc quản lý hoặc tổ chức, để không xảy ra sự nhầm lẫn hoặc không biết phải tuân thủ mệnh lệnh của ai, tránh xảy ra sự chồng chéo, gây lãng phí cho đất nước và phiền hà cho nhân dân.
Ghi chú: (1) Cuốn “Tùy Thư” là sách lịch sử của thời kỳ nhà Tùy. Sách được biên soạn bởi nhóm sử quan đời nhà Đường và hoàn thành vào năm 636 sau Công nguyên. Cuốn sách bao gồm 5 Đế kỷ, 30 Chí và 50 Liệt truyện.
Cận nghĩa: 僧多粥少[tăng đa chúc thiểu] (sư nhiều cháo ít)、人浮于事 [nhân phù vu sự ](nhiều người ít việc)
Có thể làm định ngữ, trạng ngữ,  chỉ quá nhiều lãnh đạo.
Tiếng Anh overstaffed < be ununiformly ordered>

(84) 天愁地惨[ thiên sầu địa thảm](trời sầu đất thảm)
Thành ngữ này có ý chỉ trời đất cảm thấy sầu khổ, thê thảm, hình dung cực kì bi thảm (thường dùng từ ngữ khí)
Xuất xứ từ tiểu thuyết “Tam quốc diễn nghĩa”  của nhà văn La Quán Trung, thời Minh, hồi 104: “Đang đêm, thiên sầu địa thảm, mặt trăng vụt tắt, Khổng Minh đột nhiên về trời.”
Có thể  làm vị  ngữ, định ngữ, dùng nhiều làm từ  ngữ khí.
Cận nghĩa:天昏地暗 [thiên hôn địa ám] (trời đất u ám)

(85) [mã đáo thành công]
Chúng ta thường chúc nhau [mã đáo thành công]
để mong người kia có được thành công trong công việc sắp tới.
Nhưng nguồn gốc thật sự của câu nói trên là gì, các bạn cùng tìm hiểu qua 2 điển tích dưới đây.
Thành ngữ “Mã đáo thành công” được dùng để ám chỉ sự thành công nhanh chóng.
1. Truyền thuyết thứ nhất
Năm thứ hai triều đại nhà Tần (221-206 trước công nguyên), Tần Thủy Hoàng hay tin về một Hòn đá Thần có hoa văn tinh mỹ trên núi Vinh Thành. Tương truyền rằng đây là hòn đá còn sót lại khi Thần Nữ Oa vá trời và nó có thể giúp nhà vua duy trì ổn định quyền lực.
Tần Thủy Hoàng lập tức ra lệnh xây dựng một con đường đi đến chỗ Hòn đá Thần. Sau đó, ông xuất lĩnh thiên binh vạn mã hướng về Hòn đá này; đến nơi, ông cung kính lễ bái Hòn đá một lúc lâu.
Quả nhiên sau đó sự sự như ý, thiên hạ thái bình. Tần Thủy Hoàng rất vui mừng, yêu cầu bá quan làm thơ ca ngợi. Lúc đó có một vị tên là ‘Từ Phúc lão tiên sinh’ đã viết:
Vạn mã thiên quân ngự trì đạo
Thủy Hoàng bái thạch đắc thành công
Tạm dịch:
Ngàn vạn binh lính người ngựa dong ruổi
Thủy Hoàng lễ bái hòn đá được thành công
Vào triều Nguyên (1279-1368 sau công nguyên), đại tác gia Quan Hán Khanh trong tác phẩm Ngũ Hầu Yến, đã dựa vào điển cố trên mà sáng tạo nên thành ngữ “Mã đáo thành công”.
Dần dần theo khẩu truyền, thành ngữ này hiện nay được dùng để ám chỉ sự thành công nhanh chóng.
2. Truyền thuyết thứ hai
Thời cổ đại, khi giao chiến, kị binh có vai trò quan trọng, quyết định thắng bại trên chiến trường. Khi kị binh đến thì chiến thắng.
Mã đáo thành công (Dịch nghĩa: Ngựa đến liền thành công) thể hiện sự quan trọng của ngựa trên chiến trường, về sau câu này để chỉ công việc thuân lợi, xuôi chèo mát mái. Mọi người thường nói: Kỳ Khai Đắc Thắng Mã Đáo Thành Công – .
Tranh mã đáo thành công lấy hình tượng 8 con ngựa. Tương truyền đây là tám con ngựa đánh xe đưa Chu Mục Vương , vua thứ năm của nhà Chu Trung Quốc, đi tuần thú khắp nơi. Tám con ngựa, từ sắc lông được đặt tên lần lượt là : Xích Ký, Ðạo Ly, Bạch Nghĩa, Du Luân, Sơn Tử, Cừ Hoàng, Hoa Lưu và Lục Nhĩ.
Chu Mục Vương (1001 TCN – 947TCN) hoặc (976TCN – 922 TCN) theo các nghiên cứu khác nhau là vua thứ năm của nhà Chu, ông sử dụng hiền tài làm cho nhà Chu trở nên hưng thịnh, do đó ông được coi là minh quân, tám con ngựa của ông cũng thành một điển tích nổi tiếng.
Ý nghĩa
Ngựa xuất hiện trong tranh như là biểu tượng của sự mau chóng và thành đạt. Ngựa là hình ảnh của sự trung thành, kiên nhẫn, sự may mắn mang tài lộc. Ngựa phi nước đại còn gọi là lộc mã đem lại nguồn tài lộc, sự phát đạt trong kinh doanh.
Bức tranh có chủ đề phổ biến nhất là Mã Đáo Thành Công thể hiện một bầy ngựa có tám con đang phi nước đại gió bụi mịt mù. Sở dĩ bức tranh có tám con ngựa bởi vì số 8 “Bát” đọc theo Hán cùng một âm với chữ “Phát” là phát đạt. Ngựa phi trong gió cũng có ý là con ngựa đó khỏe mạnh.
Dùng cho những người hay đi xa, chuyến đi thành công tốt đẹp. Bình thường tám con ngựa chạy về, ý là tám con đều cùng một chí hướng, đó là ý nghĩa nguyên thủy của các tranh thời xưa: “mạnh dạn dồn hết nhiệt huyết, tiến về một hướng để đạt mục đích”. Ngày nay, tranh “Mã đáo thành công” được vẽ thêm chi tiết khác bình thường.
            (Theo Đại Kỷ Nguyên bản tiếng Anh)
Cận nghĩa với thành ngữ này là: 旗开得胜 [kì khai đắc thắng] (chiến thắng ngay từ trận đầu)水到渠成 [thủy đáo cừ thành] (trăng đến rằm thì trăng tròn)
Trái nghĩa với thành ngữ này là: 屡战屡败 [lũ chiến lũ bại] (屡:nhiều lần; nhiều lần đánh bại nhiều lần thất bại)
Cách dùng: Từ với nghĩa khen  ngợi, làm vị ngữ, tân ngữ, định ngữ.

                                                        Nguyễn Ngọc Kiên

READ MORE - NHỮNG THÀNH NGỮ CÓ XUẤT XỨ TỪ THƠ CỔ ĐIỂN VÀ ĐIỂN CỐ (Kì 26) - Nguyễn Ngọc Kiên