Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Tuesday, April 10, 2018

TRAO ĐỔI VỚI ÔNG LÊ THIÊN MINH KHOA VỀ THI PHÁP - Phạm Đức Nhì



TRAO ĐỔI VỚI ÔNG LÊ THIÊN MINH KHOA 
VỀ THI PHÁP

Phạm Đức Nhì

Đọc được bình luận của ông Lê Thiên Minh Khoa dưới bài Phản Biện của anh Châu Thạch trên Facebook và trang VNQT. Sau đó lại nhận được link bài viết từ người phụ trách trang web Bông Tràm với lời nhắn “Kính gửi anh Phạm Đức Nhì bài anh Châu Thạch đề nghị đăng”. Tuy nhiên, vì bận viết trả lời anh Châu Thạch nên hôm nay mới có dịp trả lời ông Khoa. Rất mong ông thông cảm cho sự chậm trễ. Về phương cách tranh luận, tôi sẽ ghi lại những nhận xét, phê bình của ông từng điểm một và dưới đó là phản biện của tôi.  

I/

Lê Thiên Minh Khoa:

Thi pháp là một thuật ngữ của một của một ngành học mới “thi pháp học”, một chuyên ngành hẹp của lý luận văn học (và của cả Mỹ học nữa). Là thuật ngữ thì nó có nghĩa khái niệm được chuyên ngành qui ước, không thể tự hiểu tự định nghĩa theo ý hạn hẹp chủ quan mình như Ô Nhì đã phát biểu: “Thi pháp (poetics) là phương pháp, quy tắc làm thơ - sử dụng vần, nhịp điệu (và các phương tiện thẩm mỹ khác của thơ) nối kết các con chữ thành một thế trận để chuyển tải thông điệp và cảm xúc của thi sĩ đến độc giả.” Cách hiểu của Ô Nhì có nhiều cái sai:
- Trước hết, không nên chiết tự từ (vì thuật ngữ nầy đã có sẵn nghĩa qui ước của thuật ngữ do môn khoa học nầy quy định) mà lại hiểu đơn giản: thi là thơ; pháp là phép, rồi suy ra: thi pháp la quy tắc làm thơ!...

Phạm Đức Nhì:

Ông Khoa không cà kê dê ngông nên tôi cũng đi thẳng vào đề tài. Truớc hết tôi xin đưa ra một số định nghĩa về thi pháp (Poetics) thường được sử dụng trong các bài viết bàn luận văn học:

Thi Pháp (Poetics):

     1/

Định nghĩa theo kiểu chiết tự của người Việt (Tự điển Việt – Việt):

         Phương pháp, quy tắc làm thơ.


     2/

         The art of writing poetry.
         The study of linguistic techniques in poetry or literature.

tạm dịch:

        Nghê thuật, phương cách sáng tác thơ.
        Ngành nghiên cứu về kỹ thuật sử dụng ngôn ngữ trong thơ hoặc văn chương.


     3/

        Literary criticism treating of the nature and laws of poetry.

        Ngành phê bình văn học chuyên về bản chất và luật thơ.


     4/

       Poetics is the theory of literary forms and literary discourse. It may refer specifically to the theory of poetry, although some speakers use the term so broadly as to denote the concept of "theory" itself. 

      Thi Pháp là lý thuyết về các hình thức văn chương và nghị luận văn học. Nó có thể đề cập cụ thể đến lý thuyết thơ , mặc dù một số người dùng thuật ngữ này với nghĩa rộng để diễn đạt chính ý niệm về lý thuyết.


Ông Khoa thấy đấy. Không phải chỉ có các nhà phê bình văn học Nga mới có định nghĩa về thi pháp. Những định nghĩa khác của thế giới ngoài Nga thường nhắm thẳng vào thơ, phương cách sáng tác thơ, vào bản chất và luật thơ, nghĩa là vào đúng những gì tôi và anh Châu Thạch đang trao đổi, những gì người yêu thơ quan tâm. Định nghĩa đầu tiên của Tự Điển từ Đại Học Oxford lại còn rất giống định nghĩa kiểu chiết tự của những người bình dân như tôi “Thi pháp là nghệ thuật, phương cách sáng tác thơ”.
        

II/

Lê Thiên Minh Khoa:

Hiểu như vậy thì Thi pháp (poetics) không chỉ là phương pháp, quy tắc làm thơ mà rộng hơn nữa: quan niệm nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật, hình tượng tác giả trong sáng tạo nghệ thuật là bốn vấn đề cốt lõi của tinh thần thi pháp (Theo Đào Thái Sơn – Vài nét về Thi pháp học hiện đại). Còn nữa, đối tượng của thi pháp không chỉ là thể loại thơ (trữ tình) mà còn mở rộng ra các thể loại khác: truyện (tự sự), kịch và ký. Bởi vậy, ngoài kiểu nói: thi pháp Truyện Kiều, thi pháp thơ Tố Hữu..., người ta còn nói: Thi pháp truyện ngắn, thi pháp tiểu thuyết, thi pháp kịch… nữa.

Phạm Đức Nhì:

Các nhà phê bình văn học Nga đã dùng thuật ngữ thi pháp với nghĩa mở rộng để Thi Pháp Học trở thành một ngành học bao gồm thêm nhiều bộ môn văn học khác. Mặc dù ngành học này còn rất mới, đã được thế giới nhìn nhận với thái độ “chờ xem”. (Định nghĩa của Wikipedia đã bóng gió nói đến). Nhưng không phải vì thế mà cả thế giới không được hiểu Thi Pháp – khi nói về thơ - với nghĩa nguyên thủy của nó là “phương cách, quy tắc làm thơ” hoặc những định nghĩa liên quan đến thơ khác. Nói như ông Khoa “không được tự hiểu, tự định nghĩa theo ý hạn hẹp chủ quan của mình” là chỉ dựa trên Thi Pháp Học của Nga.  Nhờ ông Khoa tý. Chẳng lẽ bây giờ cả thế giới phải bỏ tất cả những quan niệm về Thi Ca của mình để đi theo con đường Thi Pháp Học của Nga? Chỗ này hình như ông Khoa nói không đúng.

III/

Lê Thiên Minh Khoa:

 Hơn nữa, thi pháp không chỉ là "sử dụng vần, nhịp điệu (và các phương tiện thẩm mỹ khác của thơ) nối kết các con chữ thành một thế trận" chỉ gồm các yếu tố thuần hình thức, như ô Nhì định nghĩa mà thi pháp còn là "khoa học về cấu tạo của tác phẩm văn học và hệ thống các phương tiện thẩm mỹ được sử dụng trong đó". Chỉ nói riêng về từ "cấu tạo": Cấu tạo bao hàm cả yếu tố nội dung: ý, tứ, nghĩa..., chứ không chỉ là hình thức, thủ pháp nghệ thuật thơ ca hoặc "sử dụng vần, nhịp điệu".

Phạm Đức Nhì:

Bàn về thi pháp là chú trọng về hình thức, nhưng không phải hình thức đơn thuần mà là hình thức đã có những phương tiện thẩm mỹ trong thi pháp được thi sĩ “lắp đặt” vào đó. Chính việc sử dụng (hay không sử dụng) những phương tiện thẩm mỹ ấy đã làm hay lên (hoặc dở đi) các thành phần của nội dung như ý, tứ, nghĩa … - nói chung là giá trị nghệ thuật của bài thơ. Nói khác đi, sử dụng (hay không sử dụng) vần, nhịp điệu (và các phương tiện thẩm mỹ khác) có mối liên hệ nhân quả với giá trị nghệ thuật của bài thơ.  


IV/

Lê Thiên Minh Khoa:

Đúng ra phải nói là tính nhạc của thơ, vì nhạc tính của thơ mới bao gồm đủ cả 4 yếu tố: âm (âm đầu, âm chính, âm cuối), thanh, vần, nhịp của thơ, trong đó, thanh (nhóm thanh bằng, nhóm thanh trắc, nhóm thanh cao, nhóm thanh thấp) và nhất là nhịp (tiết tấu) là hai yếu tố quan trọng nhất, thiếu nó văn bản không thể thành thơ, chứ không phải là vần và nhịp như Ô Nhì đã khẳng định trong định nghĩa trên. Chính chúng đã góp phần làm cho thơ văn xuôi hội đủ điều kiện thành thơ, vì bài thơ có thể không vần, không cần có sự hài âm, nhưng không thể thiếu yếu tố hài thanh và tiết tấu.......

Phạm Đức Nhì:

Tôi nói “vần, nhịp điệu (và các phương tiện thẩm mỹ khác)” là đã bao gồm mọi thành phần của thi pháp, kể cả tính nhạc. Có điều, trong trường hợp này, tôi không sa đà vào chi tiết không cần thiết như ông Khoa. Ông Khoa không đọc kỹ chứ không phải tôi thiếu sót. Riêng tính nhạc, nếu sử dụng đúng liều lượng và khéo léo sẽ tăng giá trị của bài thơ một chừng mực nào đó. Nhưng có điều chắc chắn, tính nhạc không phải là yếu tố quyết định để văn bản có thể hay không thể thành thơ. Theo tôi, hai yếu tố để văn bản được gọi là thơ là:  1/ Tâm tác giả đã ở trong khung cảnh của bài thơ (tâm đối cảnh) và 2/ Có câu thơ “sinh tình”. (Góp Ý Với Cuộc Đối Thoại “Thế Nào Thì Gọi Là Thơ”) (1)
Thí dụ:

TẠI SAO CÓ MƯA?

Nước từ biển bốc hơi
Thành mây trắng trên trời
Nếu gặp luồng khí lạnh
Thì sẽ có mưa rơi

MUỐN LÀM MÂY TRẮNG

Ta muốn làm mây trắng
Bay về Huế mộng mơ
Chờ đến khi nắng hạn
Đổ xuống một trận mưa
(Không biết xuất xứ)

Ông Khoa thấy đấy! Cả 2 bài đều có vần, tính nhạc tương đối ngang nhau (không có gì đặc biệt) nhưng có một bài không phải là thơ. Tại sao? Tại vì tính nhạc không phải là yếu tố quyết định văn bản là thơ hay không phải là thơ.  Ở đây chất “tình” đã đóng vai trò quyết định. Tại Sao Có Mưa? chỉ là phát biểu về một định luật tự nhiên, thuần lý trí, trong khi Muốn Làm Mây Trắng là tâm tình của một người Huế hết lòng yêu mến quê hương. Có lẽ ông Khoa ít đọc thơ hay bình thơ nên đã đưa ra nhận định rất sai lầm này.

V/ “Tứ Thơ” Theo Cách Hiểu Của Ông Khoa

Trước tiên ông Khoa dựa vào câu

"Dòng chảy của tứ thơ: Bài thơ gồm 6 đoạn, mỗi đoạn 4 câu diễn tả một ý riêng biệt; từ đoạn trước sang đoạn sau không bắt vần nên tứ thơ đứt đoạn, phân tán, không có dòng chảy"

 của tôi, để kết luận:

“Như thế, rõ ràng là: ô Nhì chưa nắm rõ về khái niệm 'tứ thơ’. Cũng đúng thôi, vì ‘Tứ thơ’ là một khái niệm có vẻ rất khái quát và trừu tượng nên rất khó diễn giải.“

Và rồi ông diễn giải tứ thơ như sau:

 “Tứ thơ” được hiểu như là một phương thức nào đó để tổ chức liên kết các ý trong bài thơ và hệ thống các ý đó với “tình” của nhà thơ và biểu hiện chúng bằng yếu tố ngôn ngữ (từ).

Như vậy, theo ông Khoa, tứ thơ gồm 3 thành phần: 1/ Hệ thống các ý trong bài thơ; 2/ “Tình” của nhà thơ; 3/ ngôn ngữ (từ).

Nhưng rồi ông lại viết:

“Cả ba yếu tố đó tổng hòa trong một thể thống nhất gọi là bài thơ – tác phẩm”.  

Như vậy tứ thơ cũng chính là bài thơ – tác phẩm.

Độc giả (chắc giống tôi) đã thấy hơi “bối rối” (confused) thì ông Khoa lại viết tiếp:

Như thế, chất trí tuệ, năng lực hư cấu văn học và trí tưởng tượng của nhà thơ được vận dụng hết công suất để xây dựng tứ thơ mà giới chuyên ngành gọi là “cấu tứ”.

À! Khi “chất trí tuệ, năng lực hư cấu văn học và trí tưởng tượng của nhà thơ được sử dụng hết công suất (làm sao biết được hả trời?) thì tứ thơ vươn mình thành ‘cấu tứ’”.

Tóm lại, theo sự diễn giải của ông Khoa thì tứ thơ cũng chính là bài thơ (tác phẩm) và cũng chính là “cấu tứ”.

Nhưng không hiểu sao ông lại viết thêm:

“Chính tứ thơ làm cho văn bản trở thành bài thơ, là yếu tố không thể thiếu của một bài thơ, nhất là thơ hiện đại".

Tứ thơ cũng là bài thơ mà lại còn viết “Chính tứ thơ làm cho văn bản trở thành bài thơ” thì đúng là “Vân Tiên cõng mẹ chạy ra/ Đụng phải cột nhà cõng mẹ chạy vô”

Cách hiểu của ông Khoa khiến tứ thơ có nhiệm vụ quá nặng nề. Vừa hệ thống các ý, vừa cảm xúc, vừa ngôn từ - coi như hầu hết cả các phần việc để làm thành bài thơ. Ông lại giải thích nhập nhằng khiến người đọc lỳ đòn như tôi “toát mồ hôi” mà cũng muốn “tẩu hỏa nhập ma”. Với cách diễn giải “vòng vo Tam Quốc” như vậy tôi thấy chính ông Khoa hình như cũng còn “lơ mơ” về ý nghĩa của tứ thơ.

VI/

Lê Thiên Minh Khoa:

Như thế, tứ thơ không phải do vần mà có, như Ô Nhì đã tưởng và viết: "từ đoạn trước sang đoạn sau không bắt vần nên tứ thơ đứt đoạn, phân tán, không có dòng chảy". Hơn nữa, trong thơ hiện đại, thơ hậu hiện đại, thơ văn xuôi... có những bài không vần (chứ chưa nói " không bắt vần") mà tứ thơ vẫn liên tục, liền mạch. Thơ không vần thì lấy đâu vần mà bắt, và như vậy là không có tứ thơ và không phải thơ sao? ...

Phạm Đức Nhì:

Tứ thơ, khởi đầu chỉ là một dạng ý tưởng, là thông điệp (message), là “cái gì đó” mà thi sĩ muốn chuyển đến độc giả. Nhưng khi tứ thơ biến thành ngôn từ đi vào câu thơ nó sẽ tải theo cảm xúc của thi sĩ. Thi sĩ sẽ dàn trải tứ thơ thành một thế trận. Nếu ý tưởng liền lạc và gặp thể thơ thích hợp nó sẽ chảy thành dòng. Nếu ý tưởng rời rạc lại gặp thể thơ phân mảnh đứt đoạn tứ thơ sẽ phân tán thành những “vũng”thơ, những “hố” thơ, “tuy gần mà xa” vì nước hố này không thông được với nước hố kia. Những bài thơ trường thiên (nhiều đoạn 4 câu riêng biệt) như Trên Đường Về (CLV), Tràng Giang (HC), Thềm Xưa Em Đợi Người Về (Hà Hữu Uyên) và những con tương cận khác đều có vần và mỗi đoạn là một ý “nhỏ” riêng biệt.
Dĩ nhiên, có những bài thơ không vần mà những ý “nhỏ” trong tứ thơ vẫn được xâu kết liền lạc. Nhưng giá trị nghệ thuật của chúng – do không vần - sẽ được tăng hay bị giảm tới mức nào lại là vấn đề khác.  

Kết Luận

Thi pháp (poetics), không phải Thi Pháp Học của Nga với nghĩa quá rộng được GS/TS Trần Đình Sử ra sức quảng bá, mà là “phương pháp, quy tắc làm thơ - sử dụng vần, nhịp điệu (và các phương tiện thẩm mỹ khác của thơ) nối kết các con chữ thành một thế trận để chuyển tải thông điệp và cảm xúc của thi sĩ đến độc giả” rất cần thiết cho cả thi sĩ lẫn người bình thơ. Việc áp dụng đúng liều lượng những phương tiện thẩm mỹ trong thi pháp Việt sẽ giúp làm tươi sáng bộ mặt của thơ. Câu nói “Nhìn thi pháp biết tài thơ” không phải là không có cơ sở. Nhà phê bình nắm vững thi pháp sẽ đối xử với bài thơ được bình công bằng hơn. Riêng thi sĩ, nếu nắm vững thi pháp, sẽ nhìn về hướng Bến Bờ Thi Ca với đôi mắt tự tin; với ông (bà), việc trao tặng cho đời những đứa con tinh thần đẹp xinh, sáng giá, đầy ắp chữ tình chỉ là vấn đề thời gian.

League City 04/ 2018
Phạm Đức Nhì

CHÚ THÍCH:



READ MORE - TRAO ĐỔI VỚI ÔNG LÊ THIÊN MINH KHOA VỀ THI PHÁP - Phạm Đức Nhì

NƠI AI ĐÓ ĐI QUA - Truyện ngắn - Lê Hứa Huyền Trân


 
Tác giả Lê Hứa Huyền Trân

NƠI AI ĐÓ ĐI QUA

Truyện ngắn

 Lê Hứa Huyền Trân



            Trời đương bắt đầu đông nên những cơn gió mùa bắt đầu thét những câu chào đầy giận dữ, tôi kéo vội mảnh áo khoác cho thít chặt vào người nhưng chẳng hiểu kẽ hở nào cứ làm cho gió thổi vào khiến da thịt ngày càng tím tái. Tôi tặc lưỡi, chực chửi bậy thì thấy một cô nữ sinh đang bước nhẹ vào lớp học thêm nơi tôi định tới, câu chửi trên đầu môi như tắt hẳn khi thấy cô bé ấy nở nụ cười. Lớp học thêm của tôi, nơi đó là lần đầu tiên tôi gặp em.

            Tôi rất hay chú ý những học sinh được thêm vào lớp nên chẳng thể nói em là một khởi đầu đặc biệt. Tôi cũng hay để ý tới những cô gái hay cười nên cũng chẳng thể nói nụ cười của em gây một điểm nhấn gì đó với tôi. Nói chung, ấn tượng đầu của tôi giành cho em cũng  như  bao người khác thôi, và cũng như bao cậu trai ở lớp học đến từ đủ các trường trong thành phố này, ai cũng muốn lấy lòng cô bạn mới tới. Duyên số thế nào em ngồi cạnh tôi, mà kì thực điều đó cũng chẳng làm tôi chú ý đâu. Tôi cao nhất lớp nên lúc nào cũng ngồi dưới cuối, những cô cậu mới vào bao giờ cũng e ngại xuống tận cuối ngồi, chẳng mấy chốc rồi cũng chán, cũng bỏ lên trên ngồi cả thôi. Em để lên bàn tôi một chiếc bánh bông lan có vẻ như mới làm:

     -Mời anh, em làm.

     Tôi xẳng giọng:

     -Anh không định kết bạn đâu, gây dựng mối quan hệ cho lắm vào rồi mai mốt cũng bỏ lên trên ngồi cả thôi.

     Đột nhiên em bật cười:

     -Lạ thật, em cũng không định kết bạn với ai đâu.

     Chúng tôi bắt đầu mối quan hệ lạ lùng với những ý nghĩ lạ lùng như thế. Lớp học thêm ấy bao gồm nhiều sinh viên tới từ những trường khác nhau tụ học, tất cả đều chăm chăm vào kì thi đại học sắp tới nên dường như chẳng ai buồn nói chuyện với ai, kể cả tôi cũng vậy. Tôi là học sinh tự do, rớt đại học những hai lần rồi, nay quyết định chơi cú chót, khổ luyện ôn thi, rớt nữa là phụ, bỏ luôn. Tuần ba buổi, học tối. Hôm nay, tình cờ tôi lại thấy em trên bus, em nhìn thấy tôi và chỗ ngồi tôi còn trống nên ngồi cạnh nhưng tuyệt nhiên không nói chuyện. Tôi buông lời: "Đến lớp luôn phải không?”, em chỉ ngó lơ, vì dỗi, tôi cũng không nói gì nữa. Một cm khoảng cách khi ấy bỗng thành  điều gì đó quá xa. Ngay khi vào đến lớp tôi đi trước, em vào sau, vừa thấy tôi em đã vội chào và đưa tôi một miếng bánh:

     -Anh tới sớm thế? Cho anh bánh này.

     -Em đang diễn đấy à? Chúng ta vừa ngồi xe bus với nhau.

     Em không nói gì cả, chỉ cười. Lần thứ hai tôi gặp em ở ngoài là ở tiệm tạp hóa cạnh  lớp học thêm, lần này vì hết chỗ ngồi em lại ngồi cạnh tôi ăn mì cốc, tôi khẽ buông:  

    -Lần này có quen không hay không quen nữa vậy?

     Em không trả lời mà quay đi sau khi tính tiền cốc café. Lần này, tôi giận thật, chạy  với theo em giận dữ. Em dường như biết tôi đang chạy theo nên đứng lại, cứ thế, em đi trước, tôi đi sau, chúng tôi cùng đến một khoảng đất trống dưới chân cầu. Em ngồi phịch xuống, và lấy tay vỗ vỗ vào bên cạnh, tôi miễn cưỡng ngồi theo: “Anh chưa biết tên em phải không?”. À, đúng nhỉ, đã học chung với nhau một tháng mà chưa biết cả tên. “Em tên là Tĩnh Nam.” Tôi gật đầu. Em tiếp: "Như ban đầu em đã nói em không muốn làm quen với ai cả, nhưng vì anh ngồi cạnh em nên em mới nói chuyện với anh, theo một cách nào đó, chúng ta đã quen nhau. Tuy nhiên sự thật là em vẫn không muốn quen ai hết, vì thế nếu gặp anh ở những nơi khác em vẫn sẽ giả vờ như không quen.”. "Tại sao phải làm thế?”. “Vì em sợ cảm giác phải chia tay, nếu tập với cảm giác chỉ quen nhau qua lớp học thêm chẳng phải sẽ ít kỉ niệm hơn nếu gặp ở cả những nơi khác sao?”.           

     Tĩnh Nam lớn lên ở một gia đình có ba mẹ li dị từ nhỏ. Em liên tục chuyển trường theo công việc của ba, cứ mỗi lần chuyển trường là lại phải đối diện với một lần chia tay, cứ lớn dần lên, ý thức mất mát càng nhiều nên giờ em tập cho mình thói quen không làm quen ai để không phải buồn bã. Tôi cố xóa tan không khí buồn bằng câu đùa “Nếu em đã nói với anh bí mật của em thì anh kể em nghe bí mật của em luôn, sự thật là anh trượt đại học hai năm rồi, nay là năm thứ ba nè. Người trong lớp không biết tưởng anh chín chắn cứ bầu làm lớp trưởng.” Em bật cười, tôi cũng bật cười.

            Vô tình em bước vào đời tôi giản đơn, chúng tôi đi cùng nhau suốt ba tháng trời cho tới khi bước vào lịch học căng thẳng cho kì thi đại học.

     -Em chọn học ở đâu?

     -Hà Nội, em yêu nơi đó. Hơn nữa, ba em sẽ làm cố định bốn năm ở đó, ít ra em sẽ không phải chuyển trường.

     -Anh cũng chọn Hà Nội, biết đâu chúng ta sẽ không phải chia tay.

     -Có thật không anh?- Em cười mừng rỡ - Em thực sự không muốn nơi này, hay cả anh, đều chỉ là một chốn em đã đi qua.

     Tôi mìm cười vuốt tóc em. Tôi tỏ tình với em trước ngày thi đại học. Em mỉm cười, bảo với tôi có kết quả đại học sẽ trả lời, cả tôi và em đều chắc mẩm câu trả lời của em rồi.



            Rồi tôi đậu đại học, rồi em trượt đại học. Tôi hẹn em tại quán café sách ngay giữa lòng thành phố hai đứa vẫn hay ngồi. Tôi soạn sẵn biết bao câu an ủi, soạn cả việc nếu hai đứa yêu xa, em học đại học khác thì sẽ như thế nào nhưng chẳng được gì cả. Sự thật là em không tới ngày hôm đó. Tôi không liên lạc em, cứ như tôi đã biết đó là câu trả lời, một lời tình cảm bị từ chối. Ừ nhỉ, nếu em không ở Hà Nội chẳng phải hai đứa sẽ yêu xa, sẽ chia tay, và đó sẽ là mất mát em luôn sợ? Ừ nhỉ, sao tôi chẳng bao giờ nghĩ đến tâm trạng em, nhưng nếu nghĩ đến tâm trạng em, chẳng phải tôi chấp nhận việc mình chỉ là một ai đó đi ngang qua đời em sao?


Tác giả: Lê Hứa Huyền Trân

Hội viên Hội VHNT Tỉnh Bình Định
READ MORE - NƠI AI ĐÓ ĐI QUA - Truyện ngắn - Lê Hứa Huyền Trân