Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Thursday, January 11, 2018

HOA LAN - Chùm ảnh của Chu Vương Miện





READ MORE - HOA LAN - Chùm ảnh của Chu Vương Miện

TẾT LÀ PHẢI SUM VẦY - Truyện ngắn Lê Hứa Huyền Trân

Tác giả Lê Hứa Huyền Trân


TẾT LÀ PHẢI SUM VẦY
Truyện ngắn
*Lê Hứa Huyền Trân

Cái ánh nắng chiều hoang hoải buổi cuối năm khiến lòng tôi chộn rộn xuân, tôi khẽ quay đầu nhìn lại thấy cậu đang trầm ngâm đốt vội điếu thuốc. Năm nào cũng thế, Tết tươi tất bật, nhưng sau những bộn bề công việc chuẩn bị cho buổi Tết cận kề cậu lại dành những phút ngồi lặng im như thế. Chỉ là nhìn bâng quơ về cổng, chỉ là thả hồn vô khói thuốc đang bay. Cậu tôi cai thuốc từ hồi còn trẻ, nghe cậu nói cậu đã có một lời thề nào đó. Ngày tôi còn bé, tôi còn chọc cậu:
-Hút thuốc như sinh mệnh cậu, mà cậu đời nào bỏ được?
Cậu chỉ cốc đầu tôi một cái rồi mỉm cười. Nhưng rồi sau hôm đó tôi không bao giờ thấy cậu đốt thuốc nữa. Được ít lâu thì cậu dẫn về nhà một cô gái, tay bế một đứa trẻ còn đỏ hỏn và nói với tôi:
-Đây là mợ tương lai của cháu. Cậu thiếu mợ một cái đám cưới.
Cậu tôi bề ngoài thì có vẻ lầm lì ít nói nhưng kì thực lại là một người tràn đầy tình cảm. Tôi còn nhớ ngoại tôi có bảy người con cả thảy nhưng khi tập họp lại để bàn vấn đề nuôi ngoại thì ai cũng thoái thác. Vì đều là máu mủ ruột thịt và cuộc sống mỗi người đôi khi không phải ai cũng là người trong cuộc để thấu hiểu nên tôi không bàn luận, chỉ có điều trong mắt những đứa trẻ là cháu ngoại lúc ấy, người đàn ông trẻ nhất nhà đứng ra dõng dạc:
-Anh chị không nuôi ba má thì tôi nuôi.
Có phần gây ấn tượng mạnh. Và thế là cậu nuôi ông bà thật. Ông bà tôi khó tính, lại gia trưởng, con cháu đều có phần xa cách, nhưng cậu luôn lo mọi thứ thật chu toàn, chỉ có điều là cậu lại càng ít nói hơn nữa vì tính cậu và ông bà đều không hợp. Tôi hay sang chơi với cậu, tính tôi lại có phần già dặn trước tuổi, hệt cậu hồi nhỏ, nên cậu có phần thương. Nhiều khi, tôi hỏi cậu:
-Ông bà không ai nuôi vì tính khó, sao cậu còn dành? Không như các cậu dì khác, gửi tiền về nuôi là được. Tính cậu với họ lại không hợp, thế mà chung một mái nhà?
-Nhỏ không hiểu chuyện. Hợp hay không cũng là cha mẹ, con cái phải nuôi mới là thảo hiếu.
Khi đó, cậu tôi mới hai lăm tuổi, cái tuổi bôn ba tứ phương để nuôi dưỡng ước mơ lại chỉ bó buộc cuộc đời trong một căn nhà ở quê với hai người già. Những khi Tết đến, trong khi mọi căn nhà ở quê bắt đầu treo liễn, nhà nhà giăng những dải lụa hồng trang trí, cậu cũng tất bật hết chạy đồng tới mua đủ thứ mứt quà, rồi bánh trái về cúng cho tổ tiên. Ông bà tôi có quan niệm “ cả đời đã lao động đủ rồi, già thì để con cháu lo, tuyệt nhiên không đụng tay vào”. Mẹ tôi nói nhà không có đàn bà thì khổ lắm, nhất là những dịp Tết tươi, bao nhiêu thứ phải lo, cậu tôi khi ấy vừa là người đàn ông cáng đáng đủ thứ trong gia đình, vừa là người phụ nữ chu toàn mọi thứ trong dịp Tết. Mẹ hay sai tôi qua phụ cậu, cậu dạy tôi làm bánh tét, rồi cùng tôi thức đêm canh nồi bánh chưng. Tôi vẫn còn nhớ là đàn ông trong nhà mà cậu vô cùng khéo tay, từ việc làm nhân để đổ cho tới việc gói thành những cái bánh chưng vuông vức trông rất đẹp mắt. Mẹ tôi bảo tôi ráng mà học cậu để trở thành một người đàn ông tốt, nhưng tốt cách mấy cũng đừng có học cách lầm lì ít nói như cậu, cậu gì cũng tốt, chỉ thiếu cái ân cần.
  Cậu tôi nghiện thuốc, ngồi canh bánh chưng hết đêm mà cậu nuốt trọn bao thuốc. Vậy mà ngày ấy khi dẫn mợ về cậu lại tuyên bố bỏ thuốc rồi bỏ thật. Người đàn ông có thể vì một điều gì đó mà bỏ đi thói quen bấy lâu nay của mình là một người vĩ đại lắm, bố hay bảo tôi vậy. Hẳn là cậu rất thương mợ. Thế nhưng, khi cậu dẫn mợ về ông bà tôi lại phản đối ra mặt. Đó là hôm ba mươi tết, cậu dẫn mợ về nhà để mong cả nhà hoan hỉ nhưng ông vì giận quá trước tình cảnh đột ngột này mà chặt luôn cả chậu tắc chuẩn bị quả chuyển sang vàng, còn bà thì mâm ngũ quả vứt lộn xộn cả lên. Tôi khi ấy vẫn không hiểu nổi, tại sao khi cậu đã hiếu thảo như vậy và khi cậu có một gia đình không một ai mừng cho cậu. Và chẳng phải Tết là lúc gia đình nên sum họp hay sao mà lại để mọi thứ vỡ tan tành thế này. Ngay cả mẹ tôi, vốn là người thân và thấu hiểu cậu nhất cũng đột ngột:
-Cậu làm thế thì ẩu quá !
Sau này, lớn lên tôi mới hiểu, mọi thứ đến quá nhanh vì chẳng ai biết cậu đã yêu lúc nào, thế mà đùng một cái cậu dẫn về nhà một cô vợ. Dẫn về đã đành, đằng này còn có cả con rồi. Ông bà tôi trước giờ không chịu nổi cảnh để mọi thứ vượt mặt mình mà không biết, hơn nữa, sáu người con trước giờ ông bà đều đặt đâu ngồi đấy, không ai tự quyết chuyện hôn nhân. Tết năm ấy nhà tôi buồn lắm, mợ tôi khóc suốt những ngày Tết, chỉ quỳ lạy ông bà mà mếu máo:
-Con đã là phận người của anh Li, xin cho con phụng dưỡng ba mẹ, nếu một thời gian sau vẫn không ưng, con xin từ nhà mà đi.
Tất nhiên ông bà tôi ưng thuận. Mợ không hiểu tính ông bà, ông bà thuận không phải vì ông bà cảm động hay thử tin mợ mà vì ông bà muốn để thời gian sẽ làm mợ nản lòng và nhất là thời gian tới với mợ sẽ khổ ải lắm. Tôi cũng lựa lời nói với cậu suy nghĩ của mình, cậu cũng hiểu nhưng giờ con còn nhỏ quá, cậu muốn nó ở với cha. Tôi cũng là người thân với mợ nhất, khi rảnh rỗi tôi hay tâm sự với mợ, mợ kể:
Mợ không phải người vùng này. Mợ gặp cậu con vào Tết ba năm trước khi cậu theo mấy người đi tới chỗ mợ bán tắc. Rồi hai người ưng ý rồi hiểu nhau. Cậu con ít nói nhưng chân thành, rồi mợ thương cậu rồi ưng về làm vợ.
Mợ còn kể, ngày mợ sinh, sinh khó, cậu đã nguyện sẽ không hút thuốc nữa để mợ sinh thành, thế rồi đứa bé chào đời cũng là ngày cậu bỏ thuốc.
Mợ ở nhà tôi ba năm, ba năm mợ khóc hết nước mắt của mình. Đến năm thứ ba, ông bà tôi đuổi mợ đi vào đúng ngày ba mươi tết. Vẫn là không chấp nhận được, vẫn là không kham nổi, vẫn là đủ lí do. Cậu tôi không giữ khi mợ ôm con đi, mợ cũng không oán cậu nửa lời. Điều cuối cùng cậu nói với ông bà là:
-Tôi để mẹ con cô ấy đi không phải vì tôi hết thương họ mà bởi vì tôi là con của ba mẹ. Chứ trong lòng tôi, đau đớn lắm.
Rồi kể từ đó cậu không nói gì nữa, chỉ vò võ làm lụng suốt ngày. Ông bà tôi cũng có phần suy nghĩ. Và cứ thế, mỗi năm, cứ đúng ngày tết, khi tát cả đều tất bật, và cậu tôi lại tất bật như suốt những năm qua, cứ đúng chiều ba mươi cậu lại châm thuốc hút như để nhớ về vợ con cậu ở phương xa, và cứ đúng chiều ba mươi, thể nào mợ cũng về, lo chu toàn ngày Tết rồi lại đi vào hôm sau. Mợ nói:
-Tuy ba mẹ không công nhận con nhưng trong lòng con đều luôn nghĩ mình là con dâu của hai người, nên hãy để con phụ chồng lo cho dịp Tết đầy đủ rồi con đi. Sẵn để cho cháu gặp ông bà chứ cháu nhớ ông bà lắm.
Và cứ thế, hi hữu như chuyện tình Ngưu Lang Chức Nư, hai người chỉ gặp nhau mỗi năm một lần. Chỉ khi nào thật rảnh, nghỉ vài ngày, cậu lại về quê mợ thăm mợ, thăm con, nhưng cũng không dám đi quá lâu vì ông bà già yếu ở nhà. Suốt ba năm nữa như thế trôi qua, cậu vẫn hay kể cho tôi nghe về giấc mơ cậu và mợ và bé em trong một ngày hạnh phúc, nhưng đó chỉ là những kì vọng trong những câu chuyện kể và khói thuốc chỉ khiến cậu nhớ về một gia đình chốn nào đó xa xăm. Mẹ tôi cuối cùng cũng nói chuyện với ông bà:
-Ba mẹ giận nó thì giận ba năm cũng đủ rồi. Xét cho cùng giờ nó cũng đã là chồng người ta, là cha người ta, tuổi nó cũng đã lớn rồi, đủ để cáng đáng một gia đình. Nó thương vợ con nó kể gì, ba mẹ tính để nó độc thân cả đời, rồi cháu ba mẹ không có cha, không có ông bà hay sao?
Bà tôi có phần mủi lòng, bao giờ cũng thế, phụ nữ thường dễ cảm thông hơn. Tết năm tiếp theo khi mợ lục tục về bà ngồi nhai trầu bỏm bẻm:
-Về chừng này có xe về không? Để ít hôm nữa hãy về.
Đứa bé được bà mở lời nghĩ bà thương nó cứ quấn lấy bà mặc bà đuổi riết, nhưng nó vẫn cứ bám nên bà phải trông, có lẽ đâu đó vô thức tình bà cháu khiến bà mủi lòng thêm. Ông thì vẫn có phần khiên cưỡng. Đó là năm đầu tiên trong tất cả mùa Tết tôi thấy cậu vui nhất, cứ quấn quýt vợ con mãi thôi. Mẹ tôi tặc lưỡi:
-Khổ, Tết là phải sum vầy mà năm nào nó cũng phải buồn.
Tôi cũng nghĩ, công nhận cậu khổ thật, cái hạnh phúc giản đơn mà phải vất vả lắm cậu mới có được.
Đứa nhỏ kháu và giống cậu y hệt, nó lại khá khéo, tôi khéo mách nước nó:
-Ông là phải cứ bám như bà ông mới thích, em lại mà chơi với ông, bám ông hoài, nhõng nhẽo vô.
Trẻ con nói gi nghe nấy, ông càng ruồng rẫy nó, nó càng bám ông, Tôi cũng biết tính ông tôi, cứng rắn thật đấy nhưng mềm lòng trước con nít. Suốt mấy ngày Tết nó bám ông miết, hết Tết mợ lại xin phép về, ông có chiều không muốn để nó đi, tự nhiên bật ra hỏi:
-Về thế khi nào quay lại?
Chỉ thế thôi mà cả nhà đều ngỡ ngàng rồi bật cười, còn tôi, tôi tự thấy mình nên khép lại câu chuyện về cậu ở đây vì có lẽ nếu kể tiếp thì mọi thứ không còn hay nữa. Tết mà, Tết sum vầy sao lại cứ chia xa mãi được. Và tình thân mà, dù có xa nhau cách mấy, cuối cùng cũng có một sợi dây gắn kết không bao giờ rứt ra được. Và cả lòng hiếu thảo nữa, đến cuối cùng sẽ lại có sự đền đáp xứng đáng mà thôi.
Tôi kháy cậu:
-Thế là ba mươi Tết khỏi hút thuốc nữa luôn nhé?
Cậu bật cười tràn đầy hạnh phúc.

Lê Hứa Huyền Trân

Hội viên Hội VHNT Tỉnh Bình Định
READ MORE - TẾT LÀ PHẢI SUM VẦY - Truyện ngắn Lê Hứa Huyền Trân

TẾT TÂY VỀ QUÊ ĐÌNH BẢNG - Thơ Nguyễn Khôi





TẾT TÂY VỀ QUÊ ĐÌNH BẢNG
                
Tết Dương lịch về quê Đình Bảng
Cũng bánh Chưng, giò chả bày ra
- Cô giáo- thím em một tay tất tả
thết anh em Công chức nhà ta...
                     
Cực đoan là Võ Tòng Xuân - Tiến sĩ
đòi bỏ Tết Ta, theo Nhật đổi đời ?
- Vui gì Tết hoa Đào chưa hé nụ
Vụ chiêm xuân... đâu đã lúc nghỉ ngơi ?
                   
Tết Dương lịch sướng mấy Ngài Nhà Nước
Chức quyền cao vui nhậu nhẹt thâu đêm
Rượu bạc triệu - tiền Chùa tham nhũng được
Kính Đức Chúa Trời
soi xét
Amen !
                                     Nguyễn Khôi
                         Quê Đình Bảng,1-1-2018

READ MORE - TẾT TÂY VỀ QUÊ ĐÌNH BẢNG - Thơ Nguyễn Khôi

CUỐN SÁCH THẤM ĐẪM NGHĨA THẦY TRÒ - Huỳnh Bá Huy


           


CUỐN SÁCH THẤM ĐẪM NGHĨA THẦY TRÒ

Với trí nhớ tuyệt vời và lối hành văn nhẹ nhàng, cuốn sách Hoài niệm Thầy Cô giáo của Thầy Đoàn Đức như những thước phim tư liệu trôi qua nhẹ nhàng, kéo quá khứ của hơn nửa thế kỷ trở về đầy ắp yêu thương và trang trọng. Bảy Thầy Cô được chọn để viết trong cuốn sách hẳn phải để lại những ký ức sâu đậm trong tâm khảm cậu học trò Đoàn Đức ở trường Nguyễn Hoàng (Quảng Trị) ngày xưa; cho nên lời kể như chạm với trái tim của tôi - người còn chưa được sinh ra khi những câu chuyện trong sách xảy ra.

Thật thú vị gặp lại bài thơ When We Two Parted của Lord Byron

         When we two parted
         In silence and tears,
         Half broken-hearted
 To sever for years…

mà Thầy đã đọc cho chúng tôi nghe vào mùa hè năm lớp 12 khi chuẩn bị giã từ tuổi áo trắng. Lúc ấy, tôi chưa rõ lắm ý nghĩa của bài thơ, chỉ nghe Thầy đọc sao mà hay và da diết quá. Khi lớn lên, qua đôi lần “trong lặng im và nước mắt” mới thấy để diễn tả cảm xúc như thế bằng thơ không dễ dàng chút nào.

Đoạn Thầy kể gặp lại Thầy Trần Thương Bá ở cửa hàng sang bán băng dĩa nhạc gây xúc động mạnh cho tôi. Sau 25 năm mất liên lạc, thầy trò gặp nhau ở đất khách khi gác chuyện dạy học đi làm kinh doanh. Thật đau đớn cho một giai đoạn những người thầy chỉ muốn làm đúng nghề nghiệp của mình mà vẫn không đủ điều kiện để làm. Tuy nhiên, bằng bản lĩnh của những người không dễ dàng chấp nhận sự khắc nghiệt của cuộc sống, các thầy đã vươn lên và thành công; chứng minh một cách hùng hồn rằng những người thầy khi cần thiết họ có thể làm nhiều hơn là chỉ cầm phấn viết bảng và soạn giáo án!

Thế hệ học trò trung học phổ thông chúng tôi (lớp 10-12) may mắn có những Thầy Cô với kiến thức uyên bác và lối sống chuẩn mực; trong đó Thầy Đoàn Đức nổi trội là người có cách giảng dạy đơn giản, dễ hiểu và yêu quí học trò. Chúng tôi luôn kính trọng sự nhã nhặn và đôn hậu của Thầy. Bây giờ, đọc “Hoài niệm Thầy Cô giáo” của Thầy lại làm cho tôi hiểu thêm về con người Thầy: bất chấp thời gian, Thầy luôn gìn giữ những kỷ niệm đẹp của thời đi học, đặc biệt dành tình cảm cho các thầy cô của mình. Một lần nữa, sau hơn 30 năm không còn học chữ của Thầy, tôi lại nhận được bài học của Thầy về nhân cách sống và nghĩa thầy trò. 

Charles Kuralt có nói: ”Good teachers know how to bring out the best in students”. Trong ngữ cảnh này, bảy thầy cô được nói đến trong cuốn sách đều là những thầy cô giáo giỏi vì chính họ đã ươm mầm cho hạt giống tâm hồn của Thầy Đoàn Đức đơm hoa kết trái như ngày hôm nay. Và chính bản thân Thầy Đoàn Đức lại là người thầy tuyệt vời cho thế hệ tiếp nối, thông qua cuốn sách như một lời dạy bảo khiêm nhường, không cần đao to búa lớn để nói về cách giữ gìn và vun đắp tình nghĩa thầy-trò.

Xin cám ơn Thầy đã chia sẻ yêu thương và mang đến những điều tốt đẹp nhất kể cả khi Thầy không còn trực tiếp dạy dỗ chúng em! Cuốn sách – chính vì lý do đó – còn mang đến ý nghĩa sâu sắc và nhân văn hơn.

                                          Sài gòn, mùa Lễ Tạ ơn 2017
                                                     Huỳnh Bá Huy
                                             Học trò Thầy Đoàn Đức,
                                  Trường THPT Hàm Tân – Bình Thuận
                                                    NK: 1981-1984

READ MORE - CUỐN SÁCH THẤM ĐẪM NGHĨA THẦY TRÒ - Huỳnh Bá Huy

THẾ THÁI NHÂN TÌNH QUA THƠ ĐẶNG XUÂN XUYẾN - Đỗ Anh Tuyến


             


         THẾ THÁI NHÂN TÌNH 
         QUA THƠ ĐẶNG XUÂN XUYẾN


Nhà thơ Đặng Xuân Xuyến gửi tặng tập thơ CƯỠNG XUÂN đã lâu nhưng vì bận nên tôi chưa viết lời cảm nhận được. Hơn nữa, nhà phê bình Châu Thạch và nhà thơ Nguyễn Thanh Lâm giới thiệu tập thơ đã khá công tâm, đã đủ ý, đủ lời nên tôi cũng khó viết thêm.
Bài viết này, giới thiệu một số bài thơ ở mảng thơ thế thái nhân tình, tức thơ thế sự, của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến, đã được anh công bố rộng rãi trên các trang mạng nhưng chưa in thành sách, theo cảm nhận của riêng tôi là hay, lạ và độc đáo. Xin được chia sẻ cùng quý vị.
1.
Quê nghèo (01) là một trong số những bài thơ hay của Đặng Xuân Xuyến. Bài thơ là tiếng lòng đớn đau của người con khi phải chính kiến cảnh đói nghèo, cơ cực trải dài qua bao năm tháng, qua bao thế hệ ở làng quê, nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Bài thơ chiếm được nhiều cảm tình của người đọc, được nhiều tác giả viết lời bình nhưng chiếc cổng làng - hình tượng độc đáo trongQuê nghèo - lại chỉ được bình thoảng qua, trong khi lẽ ra phải dành cho chiếc cổng làng một lượng câu chữ nhiều hơn thế.
Tôi nghĩ chiếc cổng làng của Quê nghèo không còn là cổng làng của riêng làng Đá nữa mà là biểu tượng của thể chế Xã Hội Chủ Nghĩa đã giam hãm, trói buộc người dân trong đói nghèo, tù túnǵ... Đấy là tiếng kêu nghẹn uất của nhà thơ về nỗi đau của chế độ đã đè nặng lên cuộc sống cơ cực, khốn quẫn của người dân. Hình ảnh cái cổng làng “Sừng sững bê tông cốt thép/ Ngạo nghễ tượng đài/ Ngạo nghễ trần ai” cũng khiến người đọc liên tưởng tới hiện tượng cả xã hội thi nhau xây dựng các loại tượng đài để đục khoét ngân khố quốc gia, làm khổ thêm cuộc sống “trăm đắng ngàn cay” của người dân. Thật đau xót khi biểu tượng chiếc cổng làng - biểu tượng ngàn đời của văn hóa làng xã Việt Nam đã bị thể chế hóa, để không chỉ “Giam hãm đời người/ Tù túng giấc mơ.”, mà còn đầy đọa, đẩy cuộc sống người dân xót xa đến mức: “Quê tôi nghèo/ Nghèo cả giấc mơ.”
2.
Ru Con (02) là bài thơ Đặng Xuân Xuyến viết tặng con trai của anh, đã làm run rẩy, xúc động trái tim người đọc bởi tình yêu con bao la, sự hy sinh cho con vô bờ bến của người cha. Nhà thơ Nguyễn Đăng Hành (021) khi bình đã bật lên được thần thái của bài thơ:
Không một lời kể lể, không một câu đấu tố “kẻ” được gọi là “người lớn” đã “dạy hư”, làm khổ đứa con bé bỏng của mình, nhưng đã hiện lên hoạt cảnh đầy kịch tính, xúc động: “Con níu vào giấc ngủ/ Kiếm nụ cười trong mơ”.
Đọc đến đây tôi đã khóc, khóc thật sự bởi hình ảnh “con níu vào giấc ngủ” chứ không phải níu con vào giấc ngủ - “Kiếm nụ cười trong mơ” chứ không phải nở nụ cười trong mơ. Động từ “níu” và “kiếm” sử dụng thật đắt và sống động, gây được xúc cảm: Một đứa trẻ ở lứa tuổi rất ngây thơ trong sáng đã sớm hiểu chuyện, ý thức được thiệt thòi của mình mà “níu vào giấc ngủ” để “kiếm nụ cười trong mơ”, để tự bù đắp những thua thiệt cho mình. Và người cha, cảm được những giọt lệ âm thầm của người con, hiểu được những khao khát, thua thiệt của người con, đã lặng nhìn con ngủ với những xót xa trĩu nặng. Dù không vạch tội cụ thể “người lớn” nào đã làm khổ con mình nhưng người đọc vẫn nhận diện ra kẻ đó là ai và cảm nhận được nỗi uất hận trào dâng trong lòng người cha đối với kẻ nhẫn tâm làm khổ con mình. Đây là khổ thơ mấu chốt. Cấu tứ đặc biệt này tạo dòng chảy sức sống của bài thơ.
(…) Tiêu đề bài thơ tuy cũ, cấu tứ thơ lại hiền lành nhưng sự chân thực được cất lên từ tình yêu thương con vô bờ của người cha đã khiến bài thơ sống động, có sức truyền cảm, làm run rẩy, xúc động trái tim người đọc. Đấy chính là cái thành công, cái được của Ru Con!
3.
Lan man và chuyện thằng bạn (03) viết theo trường phái siêu thực, một phương pháp sáng tác mà lớp nhà thơ trẻ thường sử dụng khi muốn làm mới thơ, được chua dòng chữ: tặng nhà thơ Nguyễn Đăng Hành, là bài thơ đã tạo cấu tứ lạ, nét vẽ riêng trong thơ Đặng Xuân Xuyến.
Khung cảnh bài thơ là nhà “thằng bạn”, thời gian là cả ngày và đêm, được vẽ bằng gam màu u ám, rờn rợn, nhuốm đầy tử khí. Bao chùm bài thơ là không khí ngột ngạt, là tâm lý sợ hãi của nhà thơ - người dân: “Tôi đã từng sợ tiếng thạch sùng / nửa đêm tờ lạch tạch não nùng...” và “Tôi đã từng sợ ma.”... Phải chăng chính bóng đêm tội ác của chế độ đã làm nhà thơ - người dân luôn sống trong tâm trạng nơm nớp âu lo hoảng loạn?
Sự giả dối, thói tham lam và bản tính độc ác, đểu giả của “thằng bạnám chỉ tầng lớp quan lại, được bóc trần nhẹ nhàng, từ từ khi thời gian là ban ngày (khổ thơ I), nhưng khi thời gian chuyển sang tối đêm (khổ thơ II) thì mặt nạ của “thằng bạn” bị lột trần trắng phớ, lộ rõ sự đểu giả, ma mãnh, độc ác. Chỉ cần hình ảnh “thằng bạn” với “những tờ tiền đỏ như rưới máu” cũng đã đủ để vạch trần đó là những đồng tiền dơ bẩn, tội lỗi, được trấn cướp từ mồ hôi, nước mắt, thậm chí là máu, là tính mạng của những người dân lương thiện. Có lẽ vì quá hiểu nguồn gốc của những đồng tiền tội ác đó nên “tôi”, nhà thơ, không hỏi “tiền nhiều từ đâu”, và “thằng bạn” cũng biết bạn mình quá rõ con người mình nên tảng lờ, “tránh nhắc từ đâu tiền nhiều”. Và, trong cái “Quánh đêm” “Rờn rợn” “tối lịm” ấy, khuôn mặt “thằng bạn” sau khi bị nhà thơ tróc bỏ hết lớp “sơn” đã hiện rõ nét là kẻ giả tạo và độc ác:Khuôn mặt bạn/ Vời vợi của thánh nhân/ Ma lanh của ác quỷ. Đến đây, chả cần xướng danh cụ thể, người đọc vẫn chắc chắn sẽ nhận ra chân tướng đích thực “thằng bạn” của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến là ai, kẻ đấy là người thế nào, và bản chất “thằng bạn” tệ hại ra sao?...
4.
Khi cảm nhận về bài thơ Tôi nghe (04), nhà thơ Chử Văn Long viết: “Mừng cho ngòi bút tác giả bài thơ “Tôi nghe”nếu không vững tay nghề sẽ đem kể hàng loạt những vụ tham nhũng biến chất như thế, bài thơ sẽ biến thành một “bản trường ca bất hảo” trường thiên… đọc sẽ nhàm chán bởi bản chất của xã hội, dù tha hóa đến đâu vẫn còn lại bao điều tốt đẹp, vị tha, cao cả. Và đoạn thơ thứ tư bất ngờ xuất hiện: (...) Tám câu thơ gợi hình ảnh tương phản với ba đoạn thơ trên về màu sắc sáng tối làm nên bức tranh toàn cảnh sinh động mà lâu nay mỗi khi nghĩ đến thi ca người ta có cảm giác nó là thứ nghệ thuật đã tách ra, đứng bên lề cuộc sống thì nay nó lại nhập cuộc vào vui buồn thao thức lương tri. Tám câu thơ ngắn liệm trọn số phận con người nghèo khó ở bất cứ nơi nào khi mà cuộc sống chưa có công bằng bác ái, ở bất cứ nơi nào mà bọn quan tham còn được che đậy bởi những lời nói ngoài môi “vì Đảng, vì dân”!
Nhưng tôi có chút không đồng thuận với nhà thơ Chử Văn Long khi đọc những dòng kết luận của ông về Tôi nghe:
“Bài thơ không cần đoạn thứ năm: Tôi nghe… / Những mảnh đời khốn khó / Những anh Vươn sắp trơ lì hãi sợ / Có câu tức nước ắt vỡ bờ / Khi niềm tin rạn vỡ.
Bởi chỉ bốn đoạn trên nó đã gây được xung lực, nó đã gợi lên cho người đọc, dù vô tâm đến đâu cũng phải khơi dòng không thể để “tức nước vỡ bờ”. Nhìn lại những trận đại hồng thủy từng qua, cuối cùng vẫn lại dân đen chìm nổi cùng với đau thương gánh chịu.”
vì khổ thơ cuối không chỉ là lời cảnh tỉnh tới chế độ mà còn là khí phách dũng cảm của người cầm bút trước hiện trạng đau thương của đất nước. Thử hỏi khi mà ngàn vạn nhà thơ nhà văn, nhất là những nhà văn nhà thơ “Quốc Doanh” đang ỉ ôi than khóc với những tình anh tình em vô bổ, thậm chí còn đầy độc hại vì tính ru ngủ xã hội, thì mấy ai đã dũng cảm viết ra những dòng thơ nóng bỏng tình người, sục sôi tính chiến đấu như thế?.
5.
Bài thơ Lan man và chuyện đàn cừu (05) cũng viết theo trường phái siêu thực, khước từ sự chú giải, phân tích theo lối thủ cựu, được chua dòng chữ: tặng nhà thơ Vũ Đình Ninh, chủ bút trang Văn Đàn Việt.
Bài thơ gồm 2 khổ. Khổ đầu là phân cảnh, là tâm trạng của những con người thuộc tầng lớp lao động, thuộc lớp dưới nhưng lại chiếm số đông trong xã hội, vất vả, cơ cực mà vẫn phải chịu cảnh đói nghèo, lam lũ... Với khát khao, mơ ước tương lai được tươi sáng, tốt đẹp hơn, “tôi” - nhà thơ, và số đông trong xã hội - đã không ngừng phấn đấu, không ngừng tin tưởng, để rồi “tôi” phải cay đắng thốt lên: “Hình như”... Câu “hình như...” nghe chua xót, tắc nghẹn nơi cuống họng làm tái tê, rức buốt nỗi lòng. Một tứ thơ “lạ” và mới.
Sang khổ 2, nhà thơ tiếp tục câu chuyện của mình nhưng “lan man” chuyện khác, chuyện của đàn cừu: Đàn cừu / Ngoài kia... Cấu trúc bài thơ thay đổi. Cấu trúc đoạn thơ cũng thay đổi:Con đầu đàn vừa bị hóa kiếp / Cả đàn chết khiếp / Lẩy bẩy / Chen đẩy / Vào chuồng / Ông chủ oang oang / Bà chủ nhẹ nhàng / Đàn cừu / Im lặng / Cúi xuống / Nhai... Cách ngắt câu thành nhiều nhịp để diễn tả sát từng cung bậc tâm trạng: khiếp sợ, cam chịu,... của “đàn cừu”, tượng trưng cho những kẻ bị trị, cùng với cách sử dụng ngôn ngữ “cũ mới nương nhau”, đã đẩy bài thơ lên tầm cao.
6.
Bài thơ Văn Thùy “dị nhân” (06), được 2 nhà thơ Chử Văn Long (061) và Nguyễn Đăng Hành cảm mến viết lời bình, nhưng tôi thích bài của nhà thơ Nguyễn Đăng Hành (062) hơn vì ông đọc được cái hồn cốt, cái thần của bài thơ:
Đọc Văn Thùy “dị nhân” của Đặng Xuân Xuyến tôi thấy người gai gai, rạo rực, cứ ngỡ bài thơ này là viết về mình, viết cho mình vì thấy có bóng dáng tôi ở trong đó. Tôi tin, khi đọc Văn Thùy “dị nhân” sẽ không ít người thơ, nhà thơ có tâm trạng, cảm giác gai gai, rạo rực giống tôi. Đó chính là thành công của bài thơ, của nhà thơ. Thường thì những bài thơ đi vào lòng người là tuy viết về một người mà có hình ảnh của nhiều người, viết cho một người mà như viết cho nhiều người. Đó là thứ thơ có chất trời, chất đời, chất người. Văn Thùy “dị nhân” là bài thơ như thế.
(…) Bài thơ không hề kể lể, chau chuốt hay dụng công đắp vẽ mà cứ hồn nhiên, nhịp nhàng, đầy tràn “ứ hự”... Hai câu “Cả đời/ Đánh đổi” đã dựng lên, đã thắt lại cái triết luận: Tất cả là luân hồi, nhân quả và vô thường. Sự thành bại là sự đánh đổi của cuộc đời. Chữ “đánh đổi” đúng là “nhãn tự”, là lò so co giãn của bài thơ, như sợi chỉ xuyên suốt câu từ bài thơ. Nhà thơ tự hỏi “Được gì?” song lại tự lý giải, bình báo ngay sau đó:“Dăm ba bài thơ dán tem thơ bụi”. Rồi tiếp: “Thiếu vợ/ Thiếu con/ Đâu phải Kép Tư Bền/ Sao cứ bắt miệng cười tim héo”. Ôi đau quá! Buồn quá! Tác giả thật khéo ẩn dụ đặt con “tim héo” bên cạnh “miệng cười”, đọc mà thấy nặng tình nặng nợ. Khiến người đọc ngậm thở rồi mà phải thượt dài, phải thán phục và công nhận cái giá của sự say sưa, của sự đánh đổi được mất con chữ thi ca “thơ bụi”. Tôi đồ rằng, khi viết những câu thơ này, Đặng Xuân Xuyến phải nén lòng lắm để nước mắt khỏi tràn vào câu chữ, để hình ảnh của Văn Thùy “dị nhân” được sống động, rất đời: ngông ngạo, tài hoa mà chất nặng đắng cay.”
7.
Trò Đời (07), sáng tác ngày 08 tháng 05 năm 2017, với dòng chua: kính tặng nhà thơ Nguyễn Khôi, đúng dịp ông Đinh La Thăng bị thu hồi chức Bí thư Thành Ủy thành phố Hồ Chí Minh, triệu về Hà Nội, chờ ngày sẽ tra tay vào còng số 8.
Được viết ở thể thơ tự do, Trò Đời là bài thơ khá ngắn, không tuân thủ theo niêm luật mà viết thẳng đuột, khoáng đạt, đập thẳng và mạnh vào cái thế thái nhân tình đốn mạt, cạn tàu ráo máng của giới quan chức, của những kẻ khi đương chức đương quyền thì tận lực tham ô, sống thủ đoạn, bất nhân bất nghĩa nhưng khi nghỉ hưu thì lại cố rặn ra những câu trơ trẽn bảo nhau “ráng làm người tử tế” như để mà chuộc lỗi những năm tháng làm quan hút máu dân đen, sống như phường cầm thú.
Mượn giọng bất cần của một ông quan đang bị thất thế để lột trần bộ mặt đểu giả của chốn quan trường, nhà thơ ngông nghênh chửi đời, chửi bản chất chốn quan trường là “lưu manh”, “Đếch có chữ tình”, là “truy cùng diệt tận” đối thủ chính trị cho dù đối thủ ấy đã “Thất thế sa cơ”, đang cố diễn trò “Ráng “làm người tử tế””...
Câu kết bài thơ: Ngã ngựa rồi mới thèm một chữ NHÂN, không chỉ là sự trả giá của gã quan thất thế, đang hoặc sẽ bị đối thủ chính trị “truy cùng diệt tận” mà còn là lời cảnh tỉnh cho những kẻ đang làm quan, sẽ làm quan hãy sống cho tử tế, cho ra một con người để có đường lùi, có sự an toàn khi hạ cánh.
Chữ NHÂN là nhân tâm, là phần NGƯỜI trong 2 chữ CON NGƯỜI thật đáng quý làm sao!
8.
Khi bình về bài thơ Bạn Quan (08), nhà thơ Chử Văn Long hạ bút:
Tôi thật ngưỡng mộ vì nội dung, giọng điệu, câu chữ già dặn, từng trải, vừa tiếp thu cách nhìn đời, nhìn người của các lớp nhà thơ cha anh mỗi khi bĩ cực, nhưng hơn hẳn lớp nhà thơ ăn theo xã hội bây giờ, khi vui thì vỗ tay vào, hết lộc thì thở ra những lời ai oán vụn vặt làm người đời chán đọc thơ vì vậy.
Thơ Đặng Xuân Xuyến cũng mượn hơi men “giả tỉnh giả say” như để có cớ lôi tuột những mưu mô giả trá của một xã hội đang thịnh hành, đang phân hóa, làm đảo lộn hết đạo đức, nhân cách, làm người dù chỉ giới hạn bằng những lời bộc bạch, tâm sự của hai người bạn lâu ngày gặp lại, có nhu cầu phơi trải lòng mình thật đến nỗi chỉ thiếu cái tát bằng những ngón tay in lên mặt nhau, dù làm quan có chức tước giàu sang hay là dân ngu ngơ, nghèo túng, khi nhìn lại đời mình đều nhục, chưa thấy xứng kiếp người, tự mình thấy mình như súc vật, kiếp ngan, kiếp chó....
Tình bạn xa lâu ngày gặp lại nhau, người ta thường ôn lại kỷ niệm trong lành một thuở, rồi mới có nhu cầu hỏi han công việc hiện tại gia cảnh của nhau. Đằng này có tình bạn ngày xưa của họ chỉ phụ họa thêm cho nỗi ấm ức về những rối ren, bất công xã hội. Thằng học giỏi không sống thủ đoạn thì làm dân quèn, thiếu cơm rách áo. Thằng học ngu, biết nịnh nọt cúi luồn vẫn có thể mua được chức tước lên quan để kiếm bổng lộc bạc vàng, thành ra cuộc gặp gỡ nơi chôn nhau cắt rốn lại là cái cớ để nổ ra cuộc vạch mặt chỉ tên những bất công xã hội đang ấm ức nơi lòng mỗi kẻ.
Bài thơ thành bữa tiệc giữa hai người bạn thết nhau vị ngọt bùi, cay đắng tình thân, vừa là của riêng, lại vừa dọn mời người đọc nhâm nhi, cụng chén ở những năm tháng đời người thật ít điều vui, ít tình thân thiện và gần như không còn thứ tình cảm tri kỉ mà ông cha ta đã ngìn năm trồng cây cho gỗ nên trầm. Giờ rừng bỗng dưng bị đốn trụi. Tình người rồi sẽ sao đây! Đặng Xuân Xuyến đã gửi tâm sự lòng mình vào thơ cho vơi ấm ức! Có lẽ chỉ còn thơ có thể an ủi anh chăng!”
9.
Nhớ Mẹ (09) viết theo cách cũ. Hình ảnh về mẹ rất gần gũi,thân thuộc, rất đẹp trong ký ức mọi người: Mẹ gửi đồng xa tiếng cười / Mẹ mong đơm mùa trĩu hạt / Nhọc nhằn nhuộm lời mẹ hát.... Những hình ảnh tương tự như thế đã được nhiều nhà thơ sử dụng, nhưng những câu thơ cất lên từ trái tim hiếu thảo của người con, với những hình ảnh sống động, sâu lắng về Mẹ: Nhớ những chiều nắng tắt / Kẽo kẹt gánh rau mẹ vội về nhà / Dáng mẹ xiêu xiêu run rẩy chiều tà... và: Cha ở phương xa / Chúng con còn bé dại / Gánh nặng gia đình trĩu nặng đôi vai... rất của riêng Mẹ của Đặng Xuân Xuyến mới làm nao lòng người, mới gợi được cảm xúc nơi người đọc, lấy được cảm xúc của người đọc.
Bài thơ được đẩy lên cao trào, lấy thêm nước mắt của người đọc khi thẩm tiếp những câu “tan nát cõi lòng” của người con hiếu thảo: Con muốn hỏi trời cao / Con muốn cào đất rộng / Đâu là lẽ công bằng / Mẹ một đời nhân hậu thẳng ngay / Sao lắm cơ cực đắng cay / Lặng thầm qua đời mẹ... Hình ảnh người con trai:Ngửa mặt nhìn trời tay con nắm chặt / Nước mắt ngược vào tim mặn chát... để chất vấn trời cao, chất vấn số phận... đã cứa vào tim người đọc. Ở khổ thơ thứ 3 này, nhà thơ lần nữa thể hiện tay nghề vững, thể hiện sự rành rẽ về tâm tư, tình cảm và những yếu mềm của trái tim... để viết lên những câu thơ rung động lòng người, dâng lên Mẹ.  
Chưa hẳn là bài thơ tuyệt hay, thật đặc sắc nhưng Nhớ Mẹcủa Đặng Xuân Xuyến là một trong số những bài thơ hay và đẹp về lòng hiếu thảo.
10.
Bài thơ “Về quê đi mày” (10) cũng là bài thơ hay, chan chứa tình của Đặng Xuân Xuyến với bè bạn, quê hương. Tôi thật sự ấn tượng khi đọc nhà văn Dương Ninh Ninh (101) cảm Về quê đi mày với những dòng:
Về quê đi mày”, thoạt nghe tưởng như đây là tiếng nhà thơ nhắn gọi người bạn cũ. Nhưng tĩnh lòng lại, ta sẽ nhận ra đó không phải là tiếng gọi thực của nhà thơ mà là những âm vang của thời thơ dại. Cái thời thơ dại ấy tuy đã qua đi lâu rồi nhưng nó vẩn còn lưu bóng dáng những kỷ niệm về nó trong  tâm hồn mỗi người. Sau mấy chục năm, bươn trải trong thực tế phũ phàng của cuộc sống, mê mải trong những toan tính khôn ngoan của người lớn và đứng trước biết bao cơn bão tinh thần muốn xô đổ những giá trị tình cảm đạo đức, tưởng như những dấu vết ngây ngô của thời thơ dại ấy đã bị xóa nát. Nhưng không, nó chỉ ngủ yên trong lòng mỗi người để khi có dịp thì thức dậy. Với nhà thơ Đặng Xuân Xuyến cũng thế, khi anh nhớ tới người bạn hiền đã biền biệt “hai mấy năm trời” thì cũng là lúc những kỷ niệm thời thơ dại của đôi bạn bừng thức dậy trong lòng anh, âm vang thành những tiếng thơ đầy khao khát được gặp lại bạn để cùng nhau về quê ôn lại thời thơ dại ấy, bởi chỉ có về quê mới có thể tìm lại những dấu vết ngây ngô khờ khạo nhưng hồn nhiên trong sáng vô tư đã qua đi rồi ấy.
Cái hay của tiếng gọi “Về quê đi mày” là ở đấy, ở chỗ nó vừa ảo vừa thật. Và vì thế tôi thích bài thơ này của Đặng Xuân Xuyến.”
&.
Thưa quý vị!
Vài cảm nhận về một số bài thơ của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến, có gì bất cập, mong nhận được ở quý vị sự lượng thứ.
*.
Thanh Nê, ngày 10 tháng 01.2018
ĐỖ ANH TUYẾN
Địa chỉ: Khu Cộng Hòa, thị trấn Thanh Nê,
huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình
READ MORE - THẾ THÁI NHÂN TÌNH QUA THƠ ĐẶNG XUÂN XUYẾN - Đỗ Anh Tuyến

ĐỌC “TRÊN BỤC GIẢNG NGÀY NÀO” THƠ LÃNG UYỄN CHÂU – Châu Thạch

               
             
           Nhà bình thơ Châu Thạch



              ĐỌC “TRÊN BỤC GIẢNG NGÀY NÀO” 
              THƠ LÃNG UYỄN CHÂU 
                                                           Châu Thạch


Hôm nay là một ngày hạnh phúc với tôi. Buổi sáng đọc được bài thơ “Người lính già chống gậy đón xuân” của Dư Mỹ. Cảm động viết ngay lời bình. Buổi trưa nằm trên giường chơi facebook qua chiếc điện thoại. Vừa lim dim muốn ngủ thì chợt tỉnh ngay bởi bài thơ “Trên bục giảng ngày nào” của Lãng Uyển Châu. Bài thơ lạ ở chổ nói về nhà giáo mà chẳng thấy gì là mô phạm, nghĩa là nó không chịu cái chuẩn mực của những bài thơ viết về nhà giáo. Tất nhiên tác giả cũng phải dùng những cụm từ như bục giảng, phấn trắng, sân trường để nói đến quãng đời dạy học. Tuy nhiên những cụm từ đó được đặt trong một lồng kính lạ của những tứ thơ rất mới, thoát cái xác khô cứng đạo mạo của vị thầy và hóa hình họ vào trong những vẻ đẹp thắm tươi đầy thơ mộng và đầy sinh lực. Bài thơ chỉ có ba khổ thơ, khổ thơ đầu đưa ta bước vào một mùa khai giảng:

Dù nhắm mắt lại thật lâu đi nữa 
Vẫn dáng tôi trên bục giảng ngày nào
Của một thời mơ lá gió xôn xao 
Của hoa cỏ đầu thu còn khép nép...

Tôi chưa thấy ai tìm về quá khứ mà nhắm mắt lại. Tôi cũng chưa đọc được cái ý thơ nào đặc sắc như thế. Vào đề bằng hai  câu thơ “Dù nhắm mắt lại thật lâu đi nữa/ Vẫn dáng tôi trên bục giảng ngày nào” cho ta liên nghĩ đến những người đang cầu nguyện,  và từ đó dáng tác giả đứng trên bục giảng ngày nào trở nên lung linh như hình ảnh đẹp của  thiên sứ trên trời. Nhờ nhắm mắt thật lâu, hình ảnh đẹp của qúa khứ  diễn ra như một đoạn phim. Câu thơ cho  người đọc tưởng tượng xuyên suốt  bức tranh đẹp cúa tháng ngày  người thầy đứng trên bục giảng. Rồi thì tiếp hai câu thơ “Của một thời mơ lá gió xôn xao/ Của hoa cỏ đầu thu còn khép nép” cho ta thưởng thức tất cả cuộc rống rộn rịp của quá khứ thân thương và những buổi tựu trường đầu thu êm ái. Quá khứ đó tác giả diễn tả bằng cụm từ “lá gió xôn xao”. Lá màu xanh là màu tuổi trẻ, gió như là tác động của đời. Hình ảnh gió thổi vào cho lá xôn xao làm đại diện cho một thời cô giáo đứng trên bục giảng, cho ta cảm nhận biết bao điều thân yêu, quyến luyến và êm đềm như ngọn gió  mùa thu thổi vào lùm cây tươi tốt.
Khổ thơ thứ hai, tác giả vẻ một bức tranh sống động, có mùa thu ẩn hiện quanh người thầy đứng trên bục giảng và có tiếng thu lồng trong lời giảng của thầy:

Tôi đứng đấy thuở mộng đời ngoan đẹp 
Nét thanh xuân làm bạn áo trắng quen 
Thu đã về bên bảng phấn bao phen 
Cơ hồ tiếng giảng bài quanh cửa lớp 


Thơ thường hay diễn tả người thầy lấm lem phấn trắng và người ta thường tưởng tượng người thầy bán cháo phổi nên ốm o, lộm khộm. Ở đây với hai câu thơ “Tôi đứng đấy thuở mộng đời tươi đẹp/  Nét thanh xuân làm bạn áo trắng quen” Lãng Uyễn Châu đã làm cho hình ảnh người thầy hay cô giáo đầy sức sống, như những đóa hoa nở trong  mùa xuân trên một vùng đất vô cùng thanh khiết, đó là vùng của những “chiếc áo trắng quen”. Rồi thì nhà thơ đã thiên nhiên hóa chiếc bảng đen khi nói “Thu đã về trên bảng phấn bao phen/ Cơ hồ tiếng giảng bài quanh cửa lớp”. Câu thơ làm cho chiếc bảng không còn đen nữa, không còn là phương tiện khô cứng nữa mà nó trở nên thu hút, bởi nó mang hình bóng mùa thu đẹp biết bao trên khung màu đen của nó. Câu thơ cũng làm cho lời thầy trở trên nên nhạc điệu và tồn tại trong thời gian, quanh cửa lớp. Chữ  “cơ hồ” cho ta hiểu tiếng giảng bài đó đã lắng vào trong cõi tỉnh lặng, nhưng nó vẫn hiển hữu ở nơi ấy như một linh hồn.
Qua vế thơ thứ ba mùa thu không còn nữa. Tác giả nói đến mùa hè, mùa xuân và mùa đông nhưng cả ba mùa ấy hình như chủ ý chỉ dùng để tá khách vào mùa thu, là mùa mà nhà thơ  dùng nó làm hình ảnh cho cuộc đời nhà giáo của mình:

Nhắm mắt lại...ôi, một mùa nắng ngợp
Vẫn chói chang cánh phượng vỹ sân trường 
Xuân đã về bao tim ngợp yêu thương 
Đông se lạnh ôm trùm muôn nỗi nhớ !!!

Nhà thơ nhắm mắt lại để thấy mùa hè với “chói chang cánh phượng vỹ sân trường”. Nhà thơ nhắm mắt lại để thấy mùa xuân trong cuộc đời nhà giáo của mình với học trò “bao tim ngợp yêu thương” và nhà thơ cũng nhắm mắt lại để tưởng tượng nỗi nhớ của mình nằm trong mùa “đông se lạnh. Ba mùa trong cuộc đời nhà thơ là ba bông hoa để điểm xuyết cho cánh đồng  mùa thu muôn màu sắt. Cánh đồng mùa thu ấy là không gian, là thời gian của một thời tuổi trẻ làm nghề giảng dạy mà tác giả đã tôn vinh nó ở hai khổ thơ trên. Bốn câu thơ xúc tích và mô tả trọn vẹn một quá khứ vàng son trong nỗi nhớ của mình.

Có những bài thơ hay rất dài như một cánh chim quen thuộc lượn trên bầu trời cho ta nhìn ngắm rồi quên đi. Cũng có những bài thơ hay như một cánh chim lạ vụt bay lên, ngang qua vòm trời làm ta trố mắt ngạc nhiên và sửng sốt  vì vẽ đẹp của nó chấp chới, lung linh làm ta nhớ mãi. Có lẽ  với tôi, bài thơ “Trên bục giảng ngày nào” của Lãng Uyên Châu là cánh chim lạ vụt bay lên có hương và có sắc khiến tôi ngạc nhiên và nhớ mãi ./.
                                                                      Châu Thạch

      Nhà thơ Lãng Uyển Châu


TRÊN BỤC GIẢNG NGÀY NÀO 

Dù nhắm mắt lại thật lâu đi nữa 
Vẫn dáng tôi trên bục giảng ngày nào
Của một thời mơ lá gió xôn xao 
Của hoa cỏ đầu thu còn khép nép...

Tôi đứng đấy thuở mộng đời ngoan đẹp 
Nét thanh xuân làm bạn áo trắng quen 
Thu đã về bên bảng phấn bao phen 
Cơ hồ tiếng giảng bài quanh cửa lớp 

Nhắm mắt lại... ôi, một mùa nắng ngợp
Vẫn chói chang cánh phượng vỹ sân trường 
Xuân đã về bao tim ngợp yêu thương 
Đông se lạnh ôm trùm muôn nỗi nhớ !!!

                             Lãng Uyển Châu

                                     (2003)

READ MORE - ĐỌC “TRÊN BỤC GIẢNG NGÀY NÀO” THƠ LÃNG UYỄN CHÂU – Châu Thạch