Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Monday, April 30, 2018

LỤC BÁT RỜI / ĐIỀU EM BIẾT - Thơ - Ngưng Thu


Ngưng Thu

LỤC BÁT RỜI

Trên mù sương 
Dưới mù sương
Ta đi tìm lại con đường biếc xưa.

Xa đồi thưa
Gần đồi thưa
Tìm yêu quanh cõi phố mưa đẫm lòng.

Phố chật chội
Phố mênh mông
Lang thang mây 
hỏi thinh không tình là... ?

Tìm nhau giữa chốn ta bà
Kẻo mai lỡ ...
biết lạc sa bến nào ?




ĐIỀU EM BIẾT

Nắng ...
là riêng của gió

Đất ...
là riêng của trời

Duy một điều em biết 
Em ...
là riêng một người.

Giữa vô vi 
trần đời
Với muôn ngàn 
hư 
thiệt
Có một điều 
em biết
Em ...
riêng mình anh thôi

Ngưng Thu


READ MORE - LỤC BÁT RỜI / ĐIỀU EM BIẾT - Thơ - Ngưng Thu

CHỢT BUỒN MÀU HOA TÍM - Thơ - Trương Thị Thanh Tâm



Chợt Buồn Màu Hoa Tím 

Trương Thị Thanh Tâm 
              
Trời hôm nay không mưa mà thiếu nắng 
Dù nắng mưa vẫn nhớ hẹn với người 
Ngày cuối tuần chỉ gặp một lần thôi 
Ghế đá công viên, hoa Bằng Lăng nở tím 

Một ít son bờ môi cong ngọt lịm 
Ngọn gió chiều, ve vuốt má hồng tươi 
Nhìn lại trong gương môi nở nụ cười 
Đôi mắt biếc long lanh trời thương nhớ 

Tóc buông dài một thời hoa mới nở 
Gío cợt đùa mặc nắng sớm hờn ghen 
Vầng trăng nghiêng đâu sánh với ánh đèn...
Đêm phố thị nồng nàn mùi son phấn 

Kỷ niệm cũng trôi theo dòng nước lớn 
Lời hẹn thề như cánh lá vàng bay 
Trời bão giông, xa cách một vòng tay 
Đời dâu bể còn ít nhiều nuối tiếc 

Có gặp lại giã vờ chưa quen biết 
Kỷ niệm ngày nào,  bong bóng vỡ trong mưa 
Khi trở về qua con phố ngày xưa 
Đường Bằng Lăng chợt buồn màu hoa tím.

                Trương Thị Thanh Tâm 
                                Mỹ Tho
READ MORE - CHỢT BUỒN MÀU HOA TÍM - Thơ - Trương Thị Thanh Tâm

CÒN NGÂN LỆ SỬ - Thơ - Mặc Phương Tử




CÒN NGÂN LỆ SỬ


Từ lúc quê mình thôi lửa đạn
Xanh mùa thương nhớ, buổi  sầu tan.
Chao ôi, mấy lượt lời non nước
Vẫn thế, bao phen chuyện đá vàng!
Dòng mộng đã theo trời viễn mộng
Non ngàn còn lạnh dấu sương ngàn.
Ai hay giữa chốn hồn hoa cỏ,
Lệ sử còn ngân những điệu đàn!


Những điệu đàn xưa ai có hay
Rơi từng nhịp xuống nước non nầy.
Hư danh đã luỵ cùng dâu bể
Lòng thật còn thơm với cỏ cây.
Mắt rộng vẫn xanh tình hạt bụi,
Đời hoang nên tím giọt đài mây.
Dẫu trăm năm nữa, ngàn năm nữa...
Hùng sử quê hương đẹp tháng ngày.


                                                South Dakota, tháng 4.2018.
                                                MẶC PHƯƠNG TỬ




READ MORE - CÒN NGÂN LỆ SỬ - Thơ - Mặc Phương Tử

HOA QUỲNH ĐỎ - Chùm ảnh - Chu Vương Miện






READ MORE - HOA QUỲNH ĐỎ - Chùm ảnh - Chu Vương Miện

BƯỚC THỤY DU - Thơ La Thụy


   


   BƯỚC THỤY DU

   Đêm lặng thầm bên biển vắng
   Mơ hồ vẳng trong gió thoảng
   Tiếng người yêu dấu gọi tên
   Bâng khuâng xao xuyến niềm riêng

   Sóng miên man ru bờ cát
   Mây trời mờ lan khói nhạt
   E ấp quyện ánh trăng tà
   Dịu dàng gửi nụ hôn xa

   Ngọt đôi môi, lòng rung động
   Bờ thuỳ dương ru tình mộng
   Hồn phiêu phong trong sương mù
   Lãng đãng từng bước thuỵ du

                                     La Thụy

READ MORE - BƯỚC THỤY DU - Thơ La Thụy

GẶP TRÊN PHỐ- Chùm thơ - Lê Thiên Minh Khoa


Chùm thơ
LÊ THIÊN MINH KHOA 
 
Ảnh: LTMK trước bức tranh NGƯỜI BÁN NỤ CƯỜI của HS Phạm Hoan 

GẶP TRÊN PHỐ

Chiều qua
trên đường  phố
tôi gặp
ngừời  đàn bà phờ phạc
bán vé số

Tối qua
ở góc phố 
tôi gặp
người đàn bà phờ phạc
ôm con
*
Chiều nay
trên đường  phố
tôi gặp
người đàn bà phờ phạc
đụng xe

Tối nay
ở góc phố
tôi gặp
ngưòi đàn ông tật nguyền
bồng con người đàn bà
xoè tay!...
                         Bà Rịa, 16.8.2012.
                


TÌNH VỘI

Dòng sông chảy xiết
cuốn nhiều phù sa
vần thơ viết nhanh
giấu nhiều xung động
*
Cuộc tình đến vội
lắng nhiều khát khao !...


DẤU LẶNG
                           
Lén nhặt hòn đá Núi Dinh
Mai về quà em để nhớ
Hiếm hoạ núi đồi xuống phố
Dấu lặng chút tình cho nhau...
           Núi Dinh, 08.12.2011.
          Viết khi đợi nhà thơ Vũ Xuân Hương ký họa.
                                               
LÊ THIÊN MINH KHOA 
(Trích tập“LẶNG LẼ TÔI” của LTMK, sắp xuất bản- quý II-2018.)



READ MORE - GẶP TRÊN PHỐ- Chùm thơ - Lê Thiên Minh Khoa

CÁNH ĐỒNG HOA VÀNG - Trần Mai Ngân


 
                                      Tác giả Trần Mai Ngân



  CÁNH ĐỒNG HOA VÀNG

  Cơn đau đã không còn ý nghĩa nữa khi banca đẩy tôi vào phòng mỗ cách ly với người thân. Mọi thứ tôi đã dặn dò xong, cảm ơn xong và tạm biệt xong... Bây giờ trong lúc nằm chờ đến lượt mình phẩu thuật tôi miên man nghĩ về cánh đồng hoa vàng và lời hẹn năm xưa trong giấc Thụy Du.

    Trong giấc Thụy Du đó tôi không còn sự bận rộn của đời sống vì mọi người nữa mà là tôi sống cho tôi , tôi thở cho tôi. Tôi hoàn toàn tự do . Tự do nói cười, tự do buồn khóc và cả tự do cô đơn. Tôi không cần phải che giấu cảm xúc của mình nữa...
     Tôi thấy tôi tung tăng giữa cánh đồng hoa vàng... rập rờn bướm bay và vài đôi Chuồn Chuồn Ớt tôi yêu khi còn bé. Tôi đưa tay ra đón chào và hân hoan , trên môi tôi là nụ cười của người được trở về...
       Tôi trở về khu vườn xưa và tìm lại N. Tôi khi đi, khi chạy và tôi gọi N ...N  ơi... Chỉ có tiếng lá hoa vọng lại... chỉ có bướm bay quanh tôi...và gió. Tôi thấy mình bị lạnh, rất lạnh... Tôi thèm bàn tay ấm nắm lấy tay mình và an ủi rằng người ở cạnh tôi đây...
       Nhưng không, tôi chỉ một mình và cả ngay trong giấc mơ cũng là sự đợi chờ...

       Tôi không khóc. Nhưng nước mắt lại tự chảy ra khi tôi tỉnh dậy. Tôi có cảm giác đau buốt. Tôi biết là giấc Thụy Du đã hết. Tôi lại được quay về sự bận rộn của đời thường. Sống tốt và làm việc cho mọi người, cho tôi.

      Cảm ơn một cơn đau ngắn để tôi được quay về thăm cánh đồng hoa vàng của mình, để trong mơ hồ tôi được gọi N. Hoa vàng và N lời hẹn của chúng ta, còn không !

                                                             24-4-2018
                                                         Trần Mai Ngân

READ MORE - CÁNH ĐỒNG HOA VÀNG - Trần Mai Ngân

NHÀ THƠ HƯ VÔ – “NÂNG GIỌT LỆ ÊM ĐỀM” - Châu Thạch





NHÀ THƠ HƯ VÔ – “NÂNG GIỌT LỆ ÊM ĐM”
                                                        Châu Thạch

         Một chiều, tôi hận hạnh được nhà thơ Xuân Thao mời tham dự buổi ra mắt tập thơ của anh tại một nhà hàng tương đối sang trọng. Vốn là một con dế mới biết gáy nên tôi không quen biết ai trong giới văn nghệ sĩ tại Đà Nẵng ngoài Xuân Thao và Thế Lộc. Tôi ngồi lặng lẽ ở một góc bàn, nhìn quý vị quan khách lần lượt vào, bắt tay chào hỏi nhau thân thiện. Một vài vị chào nhẹ tôi, còn đa số thì như không thấy tôi ngồi đó. Bên cạnh tôi cũng có một người ngồi rất lặng lẽ. Anh ta có dáng dấp nho nhã và trầm tư. Thỉnh thoảng anh đưa máy ảnh lên chụp rồi lại ngồi yên lặng. Thế nhưng, khác với tôi, nhiều nhà thơ, nhà văn bước vào đều đến vồn vã chào anh trước. Họ gọi anh là Hư Vô. Có lẽ đó là bút hiệu của anh. Anh điềm đạm trả lời và chẳng thấy anh ưu tiên niềm nở riêng một người nào. Tôi nghĩ trong bụng, đây chắc là một lãnh đạo ngành văn hóa hiện nay rồi. Về nhà hỏi Thế Lộc, thì Thế Lộc bảo là không phải, Hư Vô chỉ là một nhà thơ thường dân.Tôi nghĩ, một nhà thơ thường dân mà được chào hỏi như vậy phải là một con người đặc biệt. Từ đó tôi có cái nhìn thiện cảm với nhà thơ đó. Hôm nay lại hân hạnh được Hư Vô gởi tặng tập thơ “tay nâng giọt lệ” là một niềm vui lớn đối với tôi.

               Nhà thơ Hư Vô

       Xuất bản tập thơ với tựa đề “tay nâng giọt lệ, nhà thơ Hư Vô lấy ý từ hai câu thơ “Ta quì xuống giơ hai tay bệ vệ/Để xin nâng một giọt lệ êm đềm” của Bùi Giáng, được ưu tiên đặt nó trên bài “Thưa”, là lời tác giả thưa cùng bạn đọc, được in ở trang đầu tập sách. Như thế ta phải hiểu nhà thơ không bi thảm giọt lệ, nhà thơ nâng giọt lệ của mình hay của ai đó để nó được rơi êm đềm.     Hãy đọc đại ý của một bài thơ để hiểu thêm về tác giả. Bài thơ có 16 câu, tôi xin rút gọn:
     
     Tay tôi nâng giọt lệ     Tay tôi đ nụ cười
   
     Nụ cười làm tươi tắn
      Giọt lệ cảm hóa người
     Và một ngày nào đó     Môi tôi thêm nụ cười     Mắt tôi khô ráo lệ     An nhiên giữa cuộc đời.            
                      (Giọt lệ và nụ cười)
     
     Hãy tưởng tượng, nụ cười và giọt lệ nắm song song trên đôi tay của thi sĩ. Để làm gì? Để thi sĩ biến hóa giọt lệ hòa nhập trong nụ cười. Cả hai sẽ biến thành viên kim cương trong vắt. Đó là bùa hộ mệnh đem bình an đến cho mình và cho nhân gian. Vậy thì, ước vọng của nhà thơ không phải chỉ làm thơ để gởi mình vào đó mà còn làm thơ để đem cái năng lực vô biên của thơ, cái tình yêu cả “lá xanh và lá vàng” cao cả của Thượng đế xóa nước mắt, bồi đắp nụ cười. Nụ cười ấy như là đóa hoa trên môi. Đóa hoa ấy thể hiện sự an nhiên trong lòng mình và trong lòng nhân loại.      Vậy thì, thơ của Hư Vô không chỉ là từ cảm hứng của con tim yêu bình thường, mà còn là từ cảm hứng triết lý sống sâu xa, bắt nguồn từ cái tâm hư vô cúa Phật, cái triết lý vô vi của Lão và sự khải thị hóa gii đau thương của Đấng tối cao. Cái tâm ấy thật ra tôi thấy lần đầu tiên, nó là của Hư Vô, vì từ xưa đến nay, nhà thơ thì khóc cho đau thương, cười cho niềm vui, nhà tu thì dạy làm lành để vơi đi khổ đế, mấy ai lại bày làm thơ để “Môi tôi thêm nụ cười/ mắt tôi khô ráo lệ” nghĩa là làm thơ để hóa giải niềm đau. Biết đâu (nói vui) Hư Vô sáng tạo một “đạo thi ca”cho riêng mình!!!
    
     Từ quan niệm về thơ một cách siêu việt đó, đưa đến quan niệm về người thi sĩ trong tâm hồn Hư Vô có khác. Cũng giống như mọi nhà thơ, Hư vô cho rằng , thi sĩ như con ve “mười năm vùi trong đất/ đổi một mùa hoan ca”, thi sĩ như con tằm làm chiếc kén “kết thúc một vòng đời/chưa trọn một mùa trăng”. Thế nhưng với mọi người, con ve và con tằm sau khi dâng hiến cho đời thì chết trong đau thương. Ngược lại với Hư Vô thì:
   
     Ta viết dòng chữ nhỏ     Làm chiếc kén đời người     Vào ngủ yên trong đó     Một giấc sầu hóa thân                                                                                       (Thi Sĩ)
     
Đừng nghĩ rằng “một giấc sầu” của Hư Vô là một sự đau khổ, vì sự đau khổ không bao giờ vào trong giấc ngủ. Giấc ngủ từ xưa đến nay chỉ có công dụng làm vơi đi niềm đau mà thôi. Vậy thì “giấc sầu” của Hư Vô là một giấc thụy du miên viễn. Nỗi sầu trong giấc thụy du đó biến thành một cơn đau êm ái, biến thành một cái thú đau thương mà không một thi nhân nào không muốn được thụ hưởng nó, để đưa tâm hồn mình bay vào trong xứ lạ của mộng mơ. Đây là một tâm hồn rất lãng mạn. Bởi sự lãng mạn đó nhà thơ tưởng tượng mình được yên ngủ một giấc sầu hóa thân mãi mãi.       Cũng từ cái định hướng cho sự nghiệp làm thơ là “tay nâng giọt lệ êm đềm” nhà thơ Hư Vô đã có một ước vọng trọng đại cho cuộc đời mình. Một ước vọng hy sinh cái linh hồn nhỏ bé của mình cho công việc vĩ đại của đời. Hư Vô khiêm nhường nhận mình rằng; “Tôi là hạt sỏi nhỏ/ Thô thiển và vụng về” nhưng lại “Xin làm nền móng/ Những lâu đài ngàn năm”. Hư Vô cho hồn mình ở “vùng đất hạn” chỉ “Trồng một thân cây nhỏ” nhưng lại mun thân cây ấy “Hoa ngạt ngào tỏa hương”. Khát vọng của nhà thơ là dâng hiến cho đời. Khát vọng ấy cháy bỏng như Hỏa Diệm sơn trong một thái độ trầm tư và điềm đạm mà tôi đã thấy khi ngồi bên nhà thơ:
      
       Tim tôi từ Hỏa Diệm       Yên ngủ đã mấy mùa       Dẫu tình yêu câm nín       Còn ấp ủ dung nham            
                                             (Tôi là cát sỏi)

   Còn tình yêu cúa Hư Vô thì sao? Đó là thứ tình yêu bao dung. Xin đọc bài thơ có 25 câu. Người viết xin rút ngắn để lấy đại ý còn 14 câu:
     
       Em phương trời cánh mõi      Ta ngao du bến bờ
     Gởi lòng qua phiến lá     Lay bay buổi giao mùa
      Chiều qua miền ký ức       Lũy tre xưa điêu tàn
      Người đi từng ngày tháng      Nắng gió và âm thanh
      Ta dại khờ quá đổi      Tin những vì sao rơi
      Ngước về miền đất hứa      Giữa chập chùng mê cung      Ôi vầng trăng lặng l
      Thu nguyên màu bao dung
                                  (Thu nguyên màu bao dung)
     
   Nhà thơ đã nhận ra mình “dại khờ qua đổi” rồi nhưng vẫn ngước mắt về miền đất hứa để trong mắt mình thấy một “vầng trăng lặng lẽ” của trời “thu nguyên màu bao dung”. Vầng trăng lặng lẽ là hình ảnh của khối tình đã trở thành “Giọt lệ”. “Thu nguyên màu bao dung” là tâm trạng của người thất tình nhưng tay vẫn “nâng giọt lệ” vì lòng đã “bao dung”. Sự bao dung đó đã làm cho tâm hồn nhà thơ vẫn êm ái như buổi trời thu. Đọc thơ ở đây, ta thấy một triết lý yêu khoáng đạt, một tình yêu lớn vượt lên hết tất cả sự tầm thường của con người xương thịt. Cũng nhờ thứ tình yêu bao dung đó mà nhà thơ Hư Vô đã nhận được hạnh phúc trên đời dầu trong nghịch cảnh:
    
      Ai cũng biết yêu là đi tìm hạnh phúc     Nhưng mấy ai có được trọn vẹn hạnh phúc trên đời
      Dầu có lúc tia nắng hồng thiêu đốt      Và trùng dương gây phong vũ thủy triều      Hãy nắm tay nhau khi nào còn có thể      Để sa mạc đời thêm những giọt sương.       
                                       (Nói với người dưng)
      
      Hư Vô không cần mưa trên sa mạc, nhà thơ chỉ cần những giọt sương thôi thì hoa Xương Rồng vẫn nở, cũng như nhờ đó nhà thơ sẽ “Gieo những hoài vọng ước mơ về vĩnh cửu”.
       Ai là bạn của Hư Vô thì cũng biết nhà thơ chịu nhiều nghịch cảnh cay đắng giữa cuộc đời nầy. Ta hãy nghe Hư Vô tâm sư về anh:
      
     Một ngày chưa biết lớn khôn     Đi qua buổi chợ máu tanh thịt người     Vai thêm cặp nạng không lời     Đôi chân gỗ đá một đời buồn tênh
                                                              (Tang thương)
      
     Có thể nói rằng, Hư Vô sinh ra “dưới một ngôi sao xấu”. Vậy dưới ngôi sao xấu đó nhà thơ sống như thế nào? Xin nghe đây:
      
     Ta sinh ra đất bùn, cẩm thạch     Ta lớn lên hề lửa hồng đêm đen
                                                              (Tự tình)
     Thuở ấy đời toàn màu đen tối     Ta hòa ra mực viết câu thơ     Thơ bay qua đỉnh sầu chất ngất     Gặp đóa phù vân đẹp ngẩn ngơ     Phù vân đôi lúc rơi thành lệ     Nhỏ xuống long lanh những phiến buồn!         
                                                       (Những phiến buồn)
       
      Như vậy, cuộc đời trong tâm hồn Hư Vô vẫn quý giá như cẩm thạch, vẫn rực nóng như lửa hồng, và vẫn long lanh như những câu thơ kết tủa từ nhưng nỗi buồn quyện với phù vân trên đỉnh cao chất ngất.      Hãy tưởng tượng những đám mây hóa thành mưa. Mưa rơi xuống trần gian thật buồn. Buồn thì buồn đó nhưng mưa đem lợi ích cho nhân gian biết là chừng nào. Không những thế, mưa ấy hóa từ mây và mây ấy còn là thơ từ trong màu đen tối mà thành. Hóa ra, tất cả vẽ đẹp đó là từ những khổ đau mà đời cho Hư Vô. Nó đã hóa thành lệ. Lệ đó Hư Vô không đổ đi, không làm thành hư vô như bút hiệu của mình. Nhà thơ nhận tất cả và lấy tâm hồn bao dung của mình làm cho nó đẹp, rồi gởi nó vào đời như mưa. Mưa ấy “nhỏ xuống nhân gian nhừng giọt buồn” đẹp và ích lợi biết bao.
      
     Có nhà phê bình thơ cho rằng, thơ mà chỉ viết bằng lý trí thì không phải là thơ. Đọc toàn bộ thơ của Hư Vô, tôi cảm nhận nhà thơ viết bằng lý trí của mình. Thứ lý trí đó không những là thơ mà còn là thơ hay! Cái lý trí đó hướng dẫn tâm hồn lãng mạn của nhà thơ đi đúng con đường chân lý. Những người sinh ra dưới ngôi sao xấu, dầu là trí thức vẫn thường có ba cách sống. Một là sa lầy trong tội lỗi, hai là lao vào giành dật trong cuộc sống, ba la khinh đời, ngạo mạn và đau khổ. Ngược lại ở Hư Vô, từ trong thơ anh, ta thấy một phong cách sống thoát ra, ôm gọn niềm đau trên tay và bay bổng thanh thản trên những hệ lụy của đời. Nhà thơ không cần nhờ đến triết lý tôn giáo riêng biệt nào để thoát khổ đau. Thế nhưng trong thơ anh, hình như tất cả những triết lý cao siêu của tôn giáo, đã hóa thân vào trong “tay nâng giọt lệ”, làm cho nội tâm nhà thơ và con mắt nhìn của nhà thơ trở nên êm ái. Nhờ đó Hư Vô đã nhìn thấy “cõi bụi” “ đẹp muôn ngàn hư áo”:
    
      Rồi một mai thuyền xa bờ dâu bể     Bỏ sau lưng vừng nhật nguyệt tứ thời     Hoa cỏ mùa xuân hay lá úa thu rơi    Tiếc cõi bụi đẹp muôn ngàn hư ảo.
                                                 (Cõi Bụi)    
    Thơ của Hư Vô hầu như không có một câu thơ nào được đánh bóng, không có một khổ thơ nào được nhấn mạnh cho thanh âm kích thích tai người. Đó là một tiếng thơ trầm như con suối lặng lờ , mà ngắm nó, khách phải đưa tầm mắt nhìn bao quát dòng trôi, khách phải có con mắt ít nhiều thẩm mỹ và khách càng trường trãi với bất trắc ca cuộc đời thì khách càng thú vị biết bao. Đây là những giọt lệ rơi trong lý trí, và bởi một tâm hồn yêu sự “trong trẻo vô biên” đã làm cho vết thương trong con Sò thành ra hạt ngọc trai qúy hiếm.
Cái có trong cái không, rốt ráo là gì? Đó là Phật. Cái còn lại rốt ráo trong tâm Hư Vô là gì? Là giọt lệ thành thơ vậy!!! 

                                                                      Châu Thạch


READ MORE - NHÀ THƠ HƯ VÔ – “NÂNG GIỌT LỆ ÊM ĐỀM” - Châu Thạch

NHỮNG THÀNH NGỮ CÓ XUẤT XỨ TỪ THƠ CỔ ĐIỂN VÀ ĐIỂN CỐ (Kì 22) - Nguyễn Ngọc Kiên


                      Tác giả Nguyễn Ngọc Kiên



NHỮNG THÀNH NGỮ CÓ XUẤT XỨ 
TỪ THƠ CỔ ĐIỂN VÀ ĐIỂN CỐ (Kì 22)

70) 肝肠寸断 [can trường thốn đoạn] (ruột đứt ra từng đoạn) là thành ngữ tiếng Hán. Đó là cách nói tỉ dụ chỉ sự thương tâm đến cực điểm.
Cận nghĩa với thành ngữ này là: 心如刀割 [ tâm như đao cát] (lòng đau như cắt) 痛不欲生 [thống bất dục sinh] (đau khổ không thiết sống nữa). Trái nghia với nó là các thành ngữ: 心花怒放  [tâm hoa nộ phóng]  tương đương với các thành ngữ tiếng Việt: mở cờ trong bụng / nở gan nở ruột 喜气洋洋[hỉ khí dương dương] tương tự như niềm vui dạt dào/ tưng bừng vui nhộn.
 Như đã nói khi cần diễn tả nỗi đau đớn, khổ sở, xót xa đến cực độ, người ta thường hay dùng thành ngữ “đứt ruột đứt gan” để mô tả. Ví dụ: “Cứ trông thấy cảnh mẹ con nhà nó chịu đói khát, nhà chẳng còn gì, có khi phải ăn cháo cám cầm hơi, tôi thương đến đứt ruột đứt gan”
                        (Tổng tập Văn học Việt Nam).

Nhưng từ đâu mà dân gian lại có sự liên tưởng như vậy nhỉ? Bởi nếu nói đến sự đau đớn thì có thể có nhiều bộ phận thân thể được đem ra ví von (như tay, chân, đầu… chẳng hạn) chứ đâu cứ chỉ là ruột gan?

Có một xuất xứ liên quan câu thành ngữ này.
Theo Từ điển Thành ngữ điển cố Trung Quốc (Lê Huy Tiêu dịch, 1993) thì vào đời Tấn (266-420 sau Công nguyên, một trong sáu triều đại hậu Tam Quốc bên Trung Hoa, với sự “thống nhất sơn hà” của Tư Mã Viêm), có một vị quan tên là Hoàn Ôn. Một lần Hoàn Ôn dẫn quân đi chinh phạt, hành binh ngược dòng sông Tam Hiệp. Dọc đường, quân sĩ bắt được một chú khỉ con đang lang thang ở vách núi và bỏ vào thuyền đùa rỡn. Khỉ mẹ thấy con bị bắt, liền men theo bờ sông và cứ thế khóc gào, rất thảm thiết. Tuy mệt và sức yếu, khỉ mẹ vẫn cố đuổi theo thuyền của quân sĩ đến hơn 100 dặm (dặm: đơn vị đo độ dài cũ = 444,44m) và ráng hết sức bình sinh nhảy được lên thuyền. Nhưng khỉ mẹ cũng chỉ cố gắng được đến thế. Nó gắng gượng nhìn đứa con thân yêu lần cuối rồi lăn ra chết. Quân sĩ của Hoàn Ôn rút gươm mổ bụng khỉ mẹ và kinh ngạc thấy tất cả ruột của khỉ mẹ đều bị đứt ra từng đoạn. Người đời sau cùng thành ngữ “can trường thốn đoạn” (can: gan, trường: ruột, thốn/ đoạn: đứt, có nghĩa là “ruột gan đứt từng đoạn”) để chỉ nỗi đau thương quá mức bình thường, không sao tả xiết. Trong cuộc sống, chúng ta ai cũng từng có niềm vui khôn cùng nhưng đôi khi cũng có cả nỗi đau khôn tả. Nỗi đau đó, người đời phải lấy hình tượng “gan ruột đứt ra từng đoạn” để ví mới xứng đáng:

Nỗi đau khỉ mẹ ngày xưa
       Mà ta vẫn thấy như vừa hôm qua…


[Dẫn theo PGS – TS Phạm Văn Tình (FB Tình Pham Van) Tổng thư kí Hội Ngôn ngữ học Việt Nam]

Cụm từ “đoạn trường” (đứt ruột) được dùng nhiều trong văn học.
Trong Truyện Kiều, nhiều lần Nguyễn Du cũng không ít hơn ba lần dùng cụm từ "đoạn trường" (đứt ruột) để mô tả nỗi gian truân, khổ cực khôn cùng của nàng Kiều trong cuộc đời trầm luân dâu bể của mình.

Chẳng hạn:
Nàng càng ủ dột thu ba
Đoạn trường lúc ấy nghĩ mà buồn tênh;
Hoặc:
Đoạn trường sổ rút tên ra
Đoạn trường thơ phải đem mà trả nhau;

Hoặc:
 Ví đem vào tập đoạn trường
 Thì treo giải nhất chi nhường cho ai;

 Có một bài thơ cổ được cho là của Tề Cẩm Vân đời Minh:


Tặng biệt Phó sinh
Nhất hạp xuân dao vạn lý tình,
Đoạn trường phương thảo đoạn trường oanh.
Nguyện tương song lệ đề vi vũ,
Minh nhật lưu quân bất xuất thành.


 Có thể dịch hay diễn giải bài thơ thế này:
(Trong buổi chia tay hôm nay) một chén (rượu) xuânr m à mang tình nghĩa vạn dặm
(Đến) cỏ cây, (đến) chim oanh cũng đau xót
(Thiếp) xin lấy hai dòng nước mắt làm mưa nhỏ
Giữ chàng, không để chàng ngày mai đi khỏi thành


Nhưng tương truyền, tác giả bài thơ là Trương Mỹ Dung - là một cô gái xinh đẹp. Một viên quan muốn chiếm nàng, bị nàng cự tuyệt, tìm cách để cha nàng phải đi tù. Viên quan trẻ Phan Trung biết chuyện, cứu cha nàng, và được ông gả con gái cho. Sắp đến ngày cưới, Phan Trung phải vâng lệnh quan trên đi làm công vụ. Trong bữa rượu tiễn đưa, Trương Mỹ Dung có bài thơ này.
Chén xuân chan chứa bao tình
       Cỏ thơm xơ xác, con oanh thẫn thờ
       Sớm mai chàng đã đi chưa
       Xin đem nước mắt làm mưa giữ chàng
Bản dịch trên của nhà thơ Nguyễn Bính mà nhiều người cho là hay hơn cả nguyên tác. Chỉ tiếc mỗi câu đầu, còn hơi sáo một chút. Ba câu sau thì thật đặc sắc. Cùng chữ “đoạn trường” mà dịch là xơ xác dùng cho cỏ, thẫn thờ dùng cho oanh là một sáng tạo đặc biệt. Hai chữ vi vũ, nhà thơ không dịch sai là mưa lớn như bản có người đã dịch, cũng không dịch sát mưa nhỏ nguyên bản, mà chỉ dịch mưa, thật là tài. Hai câu ba và bốn còn được đổi chỗ cho nhau để chuyển một cách phóng túng từ câu khẳng định ở nguyên bản thành câu nghi vấn ở bản dịch. Xuất thành (đi khỏi thành) được giản lược để dịch thành đi cũng hợp lý.
     Như vậy là Nguyễn Bính còn thể hiện nghệ thuật thơ độc đáo của mình ở một bản dịch có thể nói là tài hoa.


 (71) 开天立地[Khai thiên lập địa] (Khai thiên lập địa)
Đây là thành ngữ tiếng Hán, tiếng Việt mượn nguyên dạng. Thành ngữ bắt nguồn từ thần thoại Bàn Cổ khai thiên lập địa của Trung Quốc.
Theo Lão giáo, Bàn Cổ là thủy tổ của loài người, do Trời sanh ra. Theo Tam Hoàng Thiên Kinh, sự tích Bàn Cổ như sau:
Tại núi Côn Lôn có một cục đá lớn đã thọ khí Âm Dương chiếu diệu rất lâu đời, nên đã thâu được các tính linh thông của vũ trụ mà tạo thành thai người. Sau 10 tháng 16 ngày, đúng giờ Dần, một tiếng nổ vang, khối đá linh ấy nứt ra, sản xuất một vị Linh Chân hy hữu,là Thần mang hình hài như con người được gọi là Bàn Cổ.
Vừa sinh ra thì vị ấy tập đi, tập chạy, tập nhảy, hớp gió nuốt sương, ăn hoa quả, dần dần lớn lên, mình cao trăm thước, đầu như rồng, có lông đầy mình, sức mạnh vô cùng. Một ngày kia, Bàn Cổ chạy qua hướng Tây, bắt gặp một cái búa và một cái dùi ước nặng ngàn cân. Bàn Cổ, tay phải cầm búa, tay trái cầm dùi, ra sức mở mang cõi trần.
Thuở đó Trời Ðất còn mờ mịt. Ngài ước cho phân biệt Trời Ðất thì nhân vật mới hóa sinh được. Ngài ao ước vừa dứt tiếng thì sấm nổ vang, Thiên thanh, Ðịa minh, vạn vật sinh ra đều có đủ cả.
Ngài liền chỉ Trời là Cha, chỉ Ðất là Mẹ, muôn dân là con. Ngài chính là tôn chủ sáng lập thế gian, nên cũng gọi Ngài là Thái Thượng Ðạo Quân. Ngài tự xưng là Thiên tử, tức là con Trời, cai trị muôn dân. Ngài là vị vua đầu tiên của cõi thế gian nên gọi Ngài là Hỗn Độn thị.
Tương truyền, Bàn Cổ có ba người con là Phục Hy, Nữ Oa, và Hoa Tư.
Bàn Cổ thọ được 18.000 tuổi rồi quy tiên. Tiếp theo thì có Thiên Hoàng, Ðịa Hoàng, rồi Nhân Hoàng nối nhau cai trị thiên hạ.
Nhiệm Phưởng, thế kỷ 6, đã viết huyền thoại Bàn Cổ trong quyển Thuật Dị Ký rằng:
"Ngày xưa khi Bàn Cổ chết, đầu biến thành bốn ngọn núi, hai mắt biến thành mặt trời và Mặt Trăng, mỡ biến thành sông biển, râu tóc biến thành thảo mộc. Thời Tần và Hán, dân gian kể rằng đầu của Bàn Cổ là Đông Nhạc, bụng là Trung Nhạc, tay trái là Nam Nhạc, tay phải là Bắc Nhạc, và hai chân là Tây Nhạc. Các văn nhân ngày xưa kể rằng nước mắt của Bàn Cổ là sông, hơi thở là gió, giọng nói là sấm, đồng tử trong mắt là ánh sáng."
               (Theo từ điển Wikipedia mở)

Trong tác phẩm Trâu thiến, Mạc Ngôn viết:

当时可没想到是食物中毒,自打盘古开天立地,三皇五帝到如今,我们那儿还没听说食物还能中毒。

(Nói một cách thực lòng, lúc ấy mọi người không hề nghĩ đến khái niệm ngộ độc thức ăn. Từ khi Bàn Cổ khai thiên lập địa, trải qua Tam Hoàng Ngũ Đế cho đến nay, đây là lần đầu tiên chúng tôi mới biết là ăn uống có thể bị ngộ độc.)

Tiếng Việt mượn thành ngữ này theo lối nguyên dạng.
Từ điển Hoàng Phê không chú mà chỉ giải thích: Khai thiên lập địa: Lúc bắt đầu có trời đất, theo truyền thuyết, thường dùng để chỉ thời kì xa xưa nhất. Từ khai thiên lập địa đến nay (từ xưa đến nay) [tr. 490]

(73) 黄粱一梦 [Hoàng lương nhất mộng] (giấc mộng hoàng lương / giấc mộng kê vàng)

Hai chữ 黄粱 "Hoàng lương" là chỉ hạt kê. Ý của câu thành ngữ này dùng để ví với sự mơ tưởng viển vông và những ước mong không thể thực hiện được.
Câu thành ngữ này có xuất xứ từ 枕中记"Chẩm trung ký" của Thẩm Ký Tế triều nhà Đường.
Truyện rằng, ngày xưa có một chàng thư sinh nghèo họ Lư. Một hôm, chàng vào nghỉ trong một nhà trọ ở Hàm Đan thì tình cờ gặp đạo sĩ Lã Ông, chàng không ngớt lời than phiền với đạo sĩ về cuộc đời nghèo khổ của mình. Đạo sĩ Lã Ông nghe vậy bèn rút một chiếc gối từ ống tay áo ra nói với thư sinh rằng: "Anh hãy gối đầu lên chiếc gối này thì mọi việc sẽ được như ý cả ". Bấy giờ, người chủ quán đang bắc nồi cháo kê, còn thư sinh do vất vả đường trường, đã nằm gối đầu lên chiếc gối của Lã Ông ngủ thiếp đi.
Thư sinh ngủ được một lúc thì nằm mơ mình cưới được một cô vợ họ Thôi rất xinh đẹp. Vợ chàng tuy là con gái cưng của một gia đình giàu có, nhưng lại chăm chỉ và khéo tay, nàng đã giúp chồng thuận lợi trên bước đường công danh và có với nhau mấy mụn con. Về sau các con khôn lớn, ai nấy đều có cuộc sống khá giả, ấm cúng, thư sinh lại có thêm cháu nội cháu ngoại, chàng sống cuộc đời nhàn nhã trong gia đình đến hơn 80 tuổi rồi qua đời.
Khi chàng thư sinh tỉnh giấc, thấy mình vẫn đang ở trong căn nhà trọ nhỏ hẹp, sự vinh hoa phú quý vừa rồi chẳng qua chỉ là một giấc mộng. Nồi cháo kê của chủ quán bắc trên bếp vẫn còn chưa chín.
Câu thành ngữ "Hoàng lương nhất mộng" cũng do đó mà có.
Hiện nay, người ta vẫn thường dùng "Hoàng lương nhất mộng" để ví với ảo mộng và những mong ước không thể thực hiện được.
          (Theo Đài phát thanh quốc tế Trung Quốc)

Cận nghĩa với thành ngữ này là南柯一梦[ Nam Kha nhất mộng] (giấc mộng Nam Kha)白日做梦 [bạch nhật tác mộng] (mơ giữa ban ngày)
Trái nghĩa với thành ngữ này là 如梦初醒[như mộng sơ tỉnh] (như giấc mơ vừa tỉnh / bừng tỉnh).
Người Việt mượn thành ngữ này theo lối dịch. Người Việt thường nói “mộng hoàng lương ; mộng  Nam Kha” hay mơ giữa ban ngày là nói về giấc mộng viển vông.

Báo Tây Ninh online ra ngày 29/4/2018 có đăng  bài Giấc mộng hoàng lương tác giả kết luận:

“Tôi thà không chức quyền, cuộc sống thanh bạch mà được tự do, ăn ngon miệng, ngủ ngon giấc còn hơn là có địa vị, ăn trên ngồi trốc, phú quý giàu sang mà lúc nào cũng cảm thấy bị ràng buộc, ăn cao lương mỹ vị chẳng thấy ngon, mặc nhung gấm không thấy mát, ở trong “biệt phủ” mà chẳng thấy yên, đi “siêu xe” mà chẳng thấy an toàn và giấc ngủ dù trong nệm ấm chăn êm vẫn cứ chập chờn, mộng mị... Lúc nào cũng nơm nớp bất an thì cuộc sống còn có ý nghĩa gì hả ông?”
                                                                                                                                                 Nguyễn Ngọc Kiên

READ MORE - NHỮNG THÀNH NGỮ CÓ XUẤT XỨ TỪ THƠ CỔ ĐIỂN VÀ ĐIỂN CỐ (Kì 22) - Nguyễn Ngọc Kiên