Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Tuesday, August 15, 2017

NGƯỜI ĐÀN BÀ... - Thơ Hiệp Kim Áo Tím



                        Hiệp Kim Áo Tím



NGƯỜI ĐÀN BÀ... 

Người đàn bà... trước gương soi 
Thời gian năm tháng xói mòn tuổi xuân
Đưa tay vuốt tóc ngập ngừng
Tóc đen giờ đã lưng chừng điểm sương

Người đàn bà... đứng trước gương 
Mắt nai ngày ấy giờ vương nỗi sầu
Thì giờ vùn vụt đi mau 
Chân chim còn đọng với màu mắt thâm

Người đàn bà... khẽ thì thầm
Qua đi cái thuở trăng rằm mộng mơ
Bật cười ngày ấy ngây thơ 
Lúng ta lúng túng gã khờ theo sau

Người đàn bà... ngắm thật lâu
Nét xuân ngày ấy đã mau úa tàn 
Ta làm gì hết thời gian
Làm sao giữ được dung nhan cuộc đời

Người đàn bà... ngắm hoa rơi 
Thôi ta xong một kiếp người trần gian
Qua rồi khổ ải gian nan 
Bây giờ vui sống chẳng màng lợi danh... 

                          Hiệp Kim Áo Tím
                           Đà Lạt, 2/8/2016

READ MORE - NGƯỜI ĐÀN BÀ... - Thơ Hiệp Kim Áo Tím

NHỚ CHA CON NHÀ BÁC KHƯƠNG HỮU DỤNG - Hồi ký của Lâm Bích Thủy


       
          Lâm Bích Thủy thời chưa lập gia đình


       NHỚ CHA CON NHÀ BÁC KHƯƠNG HỮU DỤNG
Trích hồi ký "Về người cha  thi sĩ" của Lâm Bích Thủy

  Tôi cố nhớ, dù hình ảnh lu mờ mà không sao có được khi tôi còn nhỏ, ở Miền Nam, bác Dụng có đến nhà tôi như bao chú nhà thơ khác hay không; sao tôi chẳng có khái niệm gì về bác. Nhưng tại số nhà 37 Hàng Quạt-Hà Nội; bác là một trong những người để lại dấu ấn đậm nét nhất trong tôi. Tôi học ở trường Nông nghiệp về khoa Chăn Nuôi Thú Y; còn em gái kề tôi là Tú Thủy học Y- Khoa. Chúng tôi thường bị bài học về ngành nghề ám ảnh. Sau mỗi bài học của Tú Thủy thì thế nào nhà tôi cũng có người bị bệnh này hay bệnh kia. Hôm học về bệnh “Cường tuyến giáp trạng”, về nhà nó bảo ngay “Cái bà Thủy này bị bệnh ba-dơ-đô”. Tiết học về Thần Kinh, nó chẩn đoán thằng Ánh bị bệnh “Tâm thần phân lập”; học về xương nó bảo Lâm Huy Nhuận bệnh thiếu xương”. Nghĩa là, trong ngành y có bệnh gì thì nhà tôi có bệnh đó, ngay sau bài học của nó. 
   Còn tôi cứ ai đến nhà thăm ba là được phân theo loại hình thần kinh mà tôi đã học được ở trong ngành. Để các bạn hiểu sơ qua việc phân loại của tôi: 

1/ Thanh săn - Đây là loại hình lý tưởng dáng đẹp, thanh tú, khôi ngô; kết cấu cơ thể chắc chắn, thần kinh thăng bằng tốt không dễ bị ức chế, linh hoạt, thông minh, nhanh nhẹn. Nếu ở người có loại hình thần kinh như thế này thường làm phi công, người mẫu, dẫn chương trình, cầu thủ bóng đá, diễn viên  v.v 
 Còn trong chăn nuôi con vật nào có loại hình như thế này thường được dùng vào việc thi đấu, như ngựa, thỏ, khuyển chẳng hạn. 
   
 2/Thanh sổi - Loại hình thần kinh này chỉ kém loại thanh săn chút xíu về ngoại hình, người hơi béo, Trong chăn nuôi loại này dùng cho sinh sản và lấy sữa như bò Hà Lan chẳng hạn. Còn ở người, thường làm công tác nghiên cứu, nhà báo, viết văn, làm phóng viên, nhạc sĩ...

3/Thô săn - Đây là loại hình có dáng người bệ vệ nhưng kết cấu cơ thể chắc khỏe, thần kinh cân bằng có thể điều tiết thức ngủ theo ý muốn. Trong chăn nuôi, loại này dùng để kéo cày, còn ở người, làm ông chủ, giám đốc là thích hợp, 

4/ Thô sổi – chỉ những người có dáng vẻ mệt mỏi, béo bệu, kết cấu cơ thể lỏng lẽo, giống như câu ví về chàng lực sĩ Hiệp Bo “lực sĩ Hiệp Bo/, ngực lép bụng to/ cổ lò xo, chân cò, tay cáo“. Loại hình thần kinh này thường bị ức chế hay buồn ngủ và không cưởng được; ngồi đâu ngủ đó. Trong chăn nuôi dùng nuôi để lấy thịt. Ở người loại này thường lười biếng chỉ há miệng chờ sung rụng.
      
  Sau bài học của tôi, bác Khương Hữu Dụng đến nhà, tôi liếc nhìn và xếp bác vào loại “thanh săn”. Bác xứng đáng ở loại này vì dáng bác cao, cân đối không gầy cũng không béo; có vầng trán rộng, da hồng hào, mắt tinh, nụ cười lương thiện, dễ gần. Bác ra về, tôi nói nhận xét của tôi cho ba nghe, ông cười vẻ đồng thuận 
 Thường khi đến, bác hay tranh luận với ba tôi về công tác biên tập, về tình hình chiến sự. Nhưng khi nhìn thấy chị em tôi bác chợt nhận ra, hai con gái Yến Lan đã lớn rồi, bác đề nghị kiêm thêm việc phụ mà khá quan trọng: 
- “Nếu Yến Lan đồng ý, mình sẽ làm ông mai cho hai tiểu thư nhà chú? ”. 
Ba tôi cười mỉm thay cho câu trả lời. 

   Bác Dụng làm mai ư? Trước hết, giới thiệu với ba tôi về anh chính trị viên cùng đơn vị với anh Khương Thế Hưng - con trai người vợ trước của bác. 
  Ba tôi là ông bố rất tâm lý; ông rành tính nết từng đứa con. Nghe bác Dụng kê sơ qua cái list về chàng rể tương lai mà bác định mai mối cho tôi: nào tuổi tác, chức vụ, tính nết v.v... ba tôi có vẻ   chăm chú lắng nghe. Nhưng khi nghe tới tuổi của anh chính trị viên hơn tôi 12 tuổi, dẫu không muốn làm phật lòng ông bạn già, song ba tôi vẫn phải nêu lý do để trì hoãn:
- Khoan đã anh, đợi con Bích về đây chúng ta hãy bàn đến chuyện đó. Tôi thấy có chỗ chưa hợp với nó anh à. Nó là đứa khó tính, khó nết trong việc chồng con, cậu này lớn tuổi hơn quá sợ nó không chịu”.  Chỉ nói có vậy thôi mà bác Dụng giận dỗi sa sầm mặt xuống: 
- “Thôi nhé, không anh em gì hết, từ nay về sau, tôi không bao giờ đến đây nữa!”. Rồi bác đùng đùng với tay lên đầu tủ, lấy chiếc mũ cối ụp lên đầu, quay ngoắc ra cửa. Ba tôi nghe tiếng bước chân nặng nề của bác nện thình thịch dưới cầu thang! 
   Ấy thế mà mấy hôm sau, bác lại vui vẻ đến nhà, đặt chiếc mũ cối lên đầu tủ, thủ thỉ với ba về vấn đề biên tập; về tình hình chính trị, về nhân phẩm của người cầm bút, như chưa hề có gì xảy ra. Khác với mọi lần, thay vì nói nhanh, hôm ấy, bác chậm rãi, nhã từng tiếng: 
- Thôi, ai bảo sao, nghĩ sao cũng được, Quân tử nhà nho hay Quân tử XHCN như Quang Dũng thường tặng cho mình cũng được tất Yến Lan ạ, Miễn là Quân tử. Đành rằng anh hùng và anh hùng cá nhân chủ nghĩa, hiện đại và hiện đại chủ nghĩa rất khác nhau. Nếu có “lạc hậu” chúng mình chịu “lạc hậu”, song nhất định không chịu cơ hội chủ nghĩa. Cố mà giữ lấy bản lĩnh, bản sắc, bản chất của một con người chân chính để xứng đáng với danh hiệu kỹ sư tâm hồn như người đời thường tặng cho làng văn ta.” …

Mỗi lần về thăm nhà, má tôi thường kể lại những chuyện đã xảy ra chung quanh tôi. Và tôi bắt gặp ánh mắt tò mò của ông già nhìn tôi như để tìm ra cái gì người khác thấy ở tôi mà ông chưa biết; và ông tủm tỉm cười nói: 
- Các chú, các bác khen con siêng năng, dể thương...các chú nói hai con gái Bích Thủy, Tú Thủy nhà Yến Lan giống như chị em Thúy Kiều Thúy Vân đấy...”. Tôi còn nghe các chú trêu tôi với anh Xuân Tùng, Thanh Tùng nhà thơ trẻ nào đó trong cơ quan nữa kia. 
  
Anh Khương Thế Hưng rất quí ba má tôi. Anh nhận ông bà là ba má nuôi. Lâu lâu, đến thăm, anh chỉ gặp mấy em còn tôi làm việc tận Nông Trường Quốc Doanh Ba Vì - Hà Tây nên anh không biết mặt tôi tròn hay dài. Anh lân la hỏi má tôi:
  - Thím ơi, thường thì em Lâm về thăm nhà lúc nào? Và má tôi cho anh biết, tôi thường nghĩ bù 4 ngày chủ nhật vào cuối mỗi tháng. Bác Dụng làm mai cho bạn của con không được, liền thay đổi chiến lượt, nghĩ:
  - Chà! ta bắn súng không nên có  lẽ phải đền đạn, biết đâu thế lại hay đấy nhỉ! Mình và Yến Lan làm xui gia với nhau thì hay biết mấy. Bác nghĩ thế và nói ý đó với anh Hưng. Rồi khuyên: 
  - Con thử đến gặp em nó xem sao? 

 Lần đầu, tại chân cầu thang, tôi vừa từ Ba Vì về tới. Đang lui hui nâng chiếc xe đạp Phượng Hoàng lên vai, thì đúng lúc anh Hưng trờ tới. Không nói không rằng, chìa vai phải ra, chuyển chiếc xe đạp trên vai tôi sang vai anh, chậm rải bước lên gác. Vừa đi vừa hỏi:- Cô em nào đây? 
 Biết tỏng là ai còn giả vờ -  Tôi nghĩ vậy và gọn lỏn trả lời - Bích Thủy. Dĩ nhiên, tôi cũng biết anh là anh Hưng con bác Khương Hữu Dụng. Vì má tôi đã kể và tả về anh cho tôi nghe nhiều lần rồi. 

Lần gặp gỡ ban đầu đó, anh hỏi gì, tôi trả lời nấy. Qua ánh mắt, cách nói, tôi nhận ra anh rất thích tôi. Tôi không tự đề cao đâu. Chính anh đã nói tất cả, khi lên tận Nông Trường Ba Vì thăm tôi. Anh nói rằng: ngay khi nghe câu trả lời ngắn gọn của tôi ở chân cầu thang, anh đã có một ấn tượng rất hay về tôi và anh thích kiểu trả lời đó. 

  Ở nhà tôi về, bác Dụng muốn biết kết quả đền đạn của mình, hỏi con: “Thế nào mày”. Tức thì anh Hưng trả lời: - “Bích Thủy đúng là Bích Thủy”. Bác Dụng ngẩn người, không hiểu nổi câu trả lời của thằng con... Hiện tôi còn giữ 2 lá thư của anh.

Năm 1971, Miền Bắc bị lụt lớn, nước rút để lại “dịch mắt đỏ”, mức độ lây lan rộng, nhanh. Bữa sau anh đến nhà thăm ba má tôi, mắt anh đỏ lừ mà còn hút thuốc. Vi khuẩn theo làn khói, phủ khắp nhà tôi. Và khi anh về, mắt tôi lập tức nhức nhối, xót như bị xát muối. Soi gương thấy hai mắt tấy đỏ au,... Hết ba ngày phép, tôi mang đôi mắt đỏ về Ba Vì, làm lây vài người nữa, rồi lại vài người nữa! Tôi mét ba, sau đó tôi nhận được thư anh:

Lá thư thứ nhất:

Tối thứ ba, 19/10/1971
Em Thủy,
“Ba anh đến thăm ba em về bảo em bị đau mắt.. và em trách anh (đã làm em đau) biết nói sao nếu quả em đau mắt là do anh., Chúa chứng dám cho anh. Quả tình anh không muốn như vậy. Em biết đấy, lỗi lầm vì cá trích ve… nếu em không phải là em thì làm chi có chuyện anh cứ ở mãi từ chiều đến tối mịt tối mù mới chịu ra về…” Thôi đừng trách anh nữa Th nhé , có gì thì chín bỏ làm mười nghe em.  Chỉ biết mong em chóng khỏi. Nếu em đồng ý thứ 7 này anh lên thăm em- Mai (thứ 4) thì mới đi. Chắc anh không kịp nhận thư em báo có đồng ý hay không. Anh cứ thử đoán vậy và kết quả đoán là sai. Thứ 7 này trả lời cho cả em và anh. Nếu anh không lên, là do em không đồng ý anh lên chơi, nếu anh lên, thì ...có trời biết được em có đồng ý hay không? Anh nói vậy em có cho anh là “hấp” (từ em hay dùng anh không hiểu nghĩa) không hở Th? Chắc có, Th nhỉ! 
Ấy, anh lại vốn vậy-thật chán mớ đời. Dù anh có bệnh dở hơi vậy, nếu anh lên, anh vẫn có mong muốn rằng đôi mắt em đã lành, đã trở lại trong sáng, rằng đôi mắt ấy tươi cười đón anh, nói với anh nhiều điều anh dễ hiểu hơn bằng lời nói; và em sẽ dẫn anh đi chơi trên những lối mòn quen thuộc em vẫn đi trên vùng thảo nguyên mênh mông ấy, và từ trong cái mênh mông ấy em muốn nói chuyện với anh hay sóng đôi đi dạo cũng được. Sự im lặng trong khoảng trời đất mênh mông-tự nó đã nói nhiều hơn ngàn lời nói  (nếu lời nói không diễn đạt đúng ý nghĩ của tâm hồn) Anh muốn nắm bắt được, những suy nghĩ, ước mơ, hoài bảo của em, từ những cái trừu tượng đến những điều đã nhập vào thực tế biến thành hành động để anh hiểu hơn con người anh muốn hiểu. Chúa lòng lành vô cùng, nhưng ý chúa thế nào,... lạy chúa tôi!
 Ta chờ đợi đến cái ngày ấy... 
Giờ thì anh tạm biệt em. Siết chặt tay đồng chí và mong cái bắt tay ko làm đ/c đau
Anh con nuôi của má em.
                                                                   Ký tên:  Hưng
Sau lần đó, anh lên thẳng Ba Vì thăm tôi, không còn qua bà má nuôi trung gian nữa. Anh tâm sự gần, tâm sự xa nêu ý muốn của hai cha con anh. Tôi chỉ cười, không trả lời. Cô bạn cùng Tổ Kỹ Thuật, khuyên anh: “Anh phải hỏi nó cho rõ ràng, kẻo nó bắt cá hai tay”. Nghe anh thuật lại, tôi cười rất tự nhiên... Cuối cùng anh tế nhị tự rút lui, không lên Ba Vì lần nào nữa! 
  Rất lâu sau, tôi mới biết anh đã mất vì bị nhiễm bệnh do chất độc da cam !

  Đầu năm 2002, hồi ký “Yến Lan, nhớ mãi về anh” của má tôi xuất bản. Mẹ con tôi ra Bắc, thăm và biếu sách cho bác Dụng. Gặp bác tại nhà chị Băng Kính-con gái bác. Bác trông yếu ớt, xanh xao; răng rụng hết, hai hàm răng giả không có trụ bám, cứ bập lên bập xuống khi nói rất khó nghe! Tôi nhìn bác mà lòng buồn. Bác cũng bị U-nan-tiền-liệt-tuyến như ba tôi. Thấy tôi liếc nhìn chiếc thau men trắng có chứa nước vàng vàng để cạnh. Chị Băng Kính thì thào vào tai tôi “bác phải mang ống dẫn nước tiểu”, đi đứng khó khăn, lâu nay chỉ quanh quẩn trong không gian hẹp quanh nhà và giường thôi!

 Để chứng minh rằng tôi luôn nhớ tới bác, tôi đọc bài thơ bác viết vào năm 1968-70, khi Bác Hồ phát động phong trào “Vì Miền Nam ruột thịt mỗi người làm việc bằng hai”  
   
Một nửa, gấp đôi
Đất nước tạm thời còn ngăn một nửa
Mỗi việc ta làm còn phải gấp đôi
Làm gấp đôi để không còn một nửa
Để một lòng thương nhớ khỏi đôi nơi
Nay xa nhau, mai gần mãi mãi
Chắc lòng ta đã hiểu thấu nghĩa gần, xa
Một năm xa, ngắn càng gần lại
Xa hay gần dài hay ngắn tại ta.

  Lời thơ mộc mạc, dễ hiểu, dễ thuộc, không thể nói là trác Việt. Nhưng do giọng đọc của tôi truyền cảm, khiến bài thơ được nâng lên đến độ cha con bác nghe xong xúc động, rưng rưng nước mắt, lính quýnh chạy lấy sổ, bút, bảo tôi đọc lại để ghi. Xong bác hỏi: - “Con biết bài thơ này bác đã làm khi nào? Tôi phá lên cười. Thật ngược đời; tác giả lại hỏi bạn đọc thời gian mình làm ra bài thơ này!  

 Thấy tôi lúc lúc nhìn đồng hồ rồi má tôi thì luôn xin phép ra về, vì đến giờ ăn trưa của bác. Bác lưu luyến không cho đi, cố nài mẹ con tôi rán ngồi thêm lát nữa. Má tôi nói “chúng em còn phải đến thăm anh Tế Hanh và Phạm Hổ…”.  Hai mẹ con tôi đứng lên, bác cũng lóng ngóng đứng lên. Tôi xin bác ngồi yên trên giường, nhưng bác không chịu, đòi tiễn chúng tôi ra tận cửa. Thế là cả  nhà bác, chị Băng Kính, tay bưng chiếc thau nước vàng đi cạnh, em Tú Anh - đại tá quân đội, đi bên phải dìu cha cùng ra cửa tiễn mẹ con tôi!  Đến lan can bác thều thào: “Bác tiễn mẹ con đến đây có thấm vào đâu so với quãng đường mẹ con cháu đã vượt qua để ra thăm bác“ Nghe bác nói, tôi cảm động nước mắt lưng tròng. và muốn biết hình ảnh ba tôi còn đọng lại trong người bạn già này nữa không; tôi vừa cười vừa hỏi: “Bác còn nhớ ba Yến Lan của con?”  Giọng bác lạc đi trong nuối tiếc “Yến Lan mà bác không nhớ thì bác còn nhớ ai hở con”. Nói rồi bác yếu ớt đưa cánh tay trái lên dụi mắt. Khó khăn lắm, hôm đó, mẹ con tôi mới từ biệt bác để được ra về! 
  
 Tái bút:
  Khi tôi đọc nhật ký của bác sĩ Đặng Thùy Trâm có nói về một nhân vật tên M mà chị vô cùng yêu thương. Tôi hoàn toàn không biết anh là ai. Đến khi chị Băng Kính em gái anh M bật mí là người đó tên Khương Thế Hưng trong một bài viết ở Báo Phụ nữ. Chị còn cho biết anh là tác giả của điệu múa Chàm Rông thì tôi giật mình. Chết, mình là nhân vật thứ ba chăng?. Tôi lật đật tìm thư anh đã gởi xem thời gian. Tôi liền thở phào nhẹ nhõm, vì tôi không là nhân vật thứ ba đã chi phối tình cảm mà chị dành cho anh Hưng. Vì lá thư anh gửi cho tôi là sau 2 năm khi chị Đặng Thùy Trâm đã đi xa hai năm trước rồi!                                                                                                                                                       Lâm Bích Thủy

READ MORE - NHỚ CHA CON NHÀ BÁC KHƯƠNG HỮU DỤNG - Hồi ký của Lâm Bích Thủy

AI CŨNG NUỐI TIẾC MỘT CUỘC ĐỜI - Truyện ngắn Lê Hứa Huyền Trân


Tác giả Lê Hứa Huyền Trân


Truyện ngắn
AI CŨNG NUỐI TIẾC MỘT CUỘC ĐỜI
Lê Hứa Huyền Trân

Tới tận giờ tôi vẫn không hiểu tại sao dượng tôi không xa dì tôi khi cuộc sống dượng nhiều điều khổ ải như thế. Nhà ngoại tôi có của, mẹ tôi lấy chồng rồi cũng đi làm xa, dì trở thành con cái độc nhất trong nhà nên hầu như bao nhiêu của cải, ngoại đều phần dì. Dượng lấy dì bỗng chốc thành phận trai ở rể, dượng cũng thuận nên ban đầu người ta cũng điều tiếng dữ lắm, nào là đàn ông mà bám váy vợ hoặc vì nhà chúng tôi giàu nên dượng chấp nhận gạt bỏ cái sĩ diện đàn ông về ở. Đã thế, nếu dượng được dì tôi yêu thương, thông cảm thì đã chẳng sao, đằng này, dường như dì có tình yêu thương bao la với tất cả mọi người, chỉ trừ mình dượng. Dì tôi khó tính, đàn bà khó tính thì cay nghiệt hơn đàn ông rất nhiều, và những người ở gần thì càng chịu đủ điều của dì, mà nhiều nhất là dượng. Mối quan hệ của hai người, tôi nhìn hoài mà chẳng hiểu, như một cặp vợ chồng phong kiến xưa, có điều người bị đày đọa khổ ải là người chồng.
Tôi không còn nhớ lắm về ngày hai người nên duyên vợ chồng, chỉ nghe mẹ tôi kể lại đó là ngày mà dì khóc nhiều nhất trong suốt cuộc đời bà và từ đó dì không bao giờ khóc nữa. Người trong nhà tôi cũng bị cấm nói lại chuyện đó, kể cả mẹ tôi mỗi khi tôi tò mò cũng chỉ bảo:
-Nếu có một ngày dì yêu thương con nhiều thật nhiều, dì sẽ tự kể con nghe câu chuyện của cuộc đời mình.
Tôi cũng tò mò nhưng con nít rồi cũng cả thèm chóng chán, chẳng mấy bận tâm. Thi thoảng, tự nhiên sực nhớ lại tôi lại nghe người trong nhà kháo nhau, chỉ biết sau khi kết hôn dì đã hưởng toàn bộ gia sản của nhà ngoại và từ đó dì không còn khóc nữa, tính nết cũng thay đổi dần, và giờ, dễ cũng đã mười năm kể từ khi kết hôn, dì hoàn toàn không còn giống một cô thôn nữ suốt ngày đùa với nhánh liễu ơ như trước nữa mà là một người đàn bà nghiêm trang lúc nào cũng khoác cái áo bà ba bằng gấm với cổ đeo vòng chuỗi xanh ngọc to đùng. Dù nhỏ tuổi hơn mẹ tôi nhưng trông dì già hơn rất nhiều với gương mặt không bao giờ cười.
Lúc tôi lên sáu thì mẹ gửi tôi nhà dì. Ân tượng của tôi lúc ấy là một người đàn bà cỡ chừng ba mươi đang ngôi nghiêm trang ở từ đường nhìn tôi bằng con mắt khó hiểu, nửa yêu thương nửa không muốn chạm vào. Bàn tay của dì đưa ra với tới tôi gầy guộc và trơ xương đến độ làm tôi run sợ, và ngay khi nhìn thấy ánh mắt sợ hãi của tôi, dì rụt tay lại. Phải đợi đến khi mẹ đẩy tôi về phía dì tôi mới dám bước tới. Mãi tới sau này mẹ mới bảo tôi:
-Không phải dì ghét con đâu. Mà vì dì không biết cách để yêu thương một ai nữa.
“Nữa” nghĩa là đã từng? Đó là câu hỏi xuyên suốt tôi suốt thời thơ ấu. Nhà ngoại lớn như một điền chủ, người ra vào tấp nập nhưng có một người khiến tôi đặc biệt chú ý. Đó là một người đàn ông đậm thước, dáng người cao ráo với khuôn mặt chũ điền lúc nào cũng đi sau dì. Ban đầu tôi tưởng đó là thợ chính, còn dì là chủ nên lúc nào cũng ở cạnh, sau dần mới biết đó là dượng. Buổi đêm thường là lúc con người ta trải lòng cho những nghĩ suy, một đứa trẻ lên sáu như tôi tò mò trước hình ảnh một người đàn ông ngồi bên hiên nhà sau khi tất cả cùng ăn uống tiệc tùng ở nhà trước. Tôi lân la lại ngồi cạnh dượng, đôi mắt dượng khắc khổ nhìn tôi, rồi nở nụ cười hiền:
-Dượng? Sao dượng lại ngồi ở đây? A là dì không cho đúng không? Nhưng dượng là chồng dì mà, dì quá đáng thiệt.
Dượng xoa đầu tôi:
-Không được nói vậy. Dì con làm gì cũng có lí do hết đó. Ai cũng có một cuộc đời mà con, dì con như thế này, tất cả là tại dượng.
Tôi định nói nữa nhưng nhìn ánh mắt dượng tôi không nỡ, ở trong đó, ngay cả tôi, cả một đứa trẻ cũng thấy  được tình yêu thương dạt dào trong đó. Dì tôi xa rời dượng đến nỗi hai người thậm chí còn ở riêng hai phòng, ăn cơm cũng ăn riêng, nếu dì tôi ăn cùng gia đình thì dượng tôi lại ăn cùng những người thợ. Nếu dì có những bộ quần áo cao sang phù hợp thân phận thì dượng lúc nào cũng vận những chiếc áo có dính vôi trên đó. Thậm chí, có lần khi thấy tôi lăng xăng chạy chơi với dượng vào buổi tối, dì tôi đã quắc mắc đầy giận dữ:” Bước vào nhà ngay, không được chơi với người lạ.”. Tôi buông tay dượng, như buông tay cả một tình yêu trong đó rồi lủi thủi về phòng. Cô Ba nói với tôi: “Tội thằng Kim, nó thương cô chủ lắm”.
Chừng chục năm trôi qua, tôi lớn dần lên, giúp dì đủ chuyện và cũng trở thành người thân đắc lực của dì, dì cũng chẳng khác, vẫn lạnh lùng như ngày xưa tôi đến, như người giấu nhiếu bí mật. Trong số đó, có bí mật là cứ mười lăm hằng tháng dì lại uống rượu và cấm tiệt ai đến gần phòng dì. Thế nhưng một đêm, khi tôi lỡ sa chân vào tôi thấy dì đang ngồi khóc, và chẳng vì lẽ gì, dì lại ôm lấy tôi.
-Dì xin lỗi, xin lỗi vì lúc nào cũng khó với con. Đừng ghét dì, tội lắm.
Rồi dì say mà ngủ mất, dượng bế thốc tôi lên ra khỏi phòng trước khi dì tỉnh lại. Trong đêm trăng dượng cũng  uống rượu, cũng một mình.
Người dì con yêu không phải là dượng. Là anh Ních, anh ấy là thầy giáo trong làng, một anh giáo nghèo. Lúc đó ngoại con không chịu, vì gia thế không cân xứng. Dì con cũng mấy lần bỏ đi theo ảnh nhưng bị bắt về. Rồi mọi thứ khác dần khi anh Ních bị tai nạn nhưng không có tiền chạy chữa…
Và rồi, và rồi ngoại đã lấy đó làm lí do để dì tôi xa chú Ních nào đó mà tôi còn không biết mặt. Bản thân dượng là người thợ chính cho nhà ngoại lúc bấy giờ, biết dượng thương dì và cũng muốn níu kéo “bàn tay vàng” của dượng, ngoại gả dì cho dượng với điều kiện sẽ chữa chạy cho chú Ních. Dì ưng thuận và chú Ních được chạy chữa khỏi rồi cũng rời làng, dì được thừa hưởng tài sản của ngoại nhưng cũng từ đó không còn yêu thương ai nữa mà lúc nào cũng nghĩ người làm dì khổ là dượng. Dượng biết tất nhưng vì thương dì nên dượng chấp nhận. Sáng hôm sau dì lại tỉnh như chưa có gì xảy ra, vẫn khó tính và không nhớ đến việc gặp tôi buổi tối qua, chỉ có điều sự thương cảm trong tôi giành cho dì đã tăng lên, nó nhiều như tình yêu thương dượng giành cho dì. Đột nhiên dì gọi tôi ra nói chuyện:
-Hôm qua con tới phòng dì đúng không?
-Dì, con xin lỗi, con…
Dì cản tôi lại không cho tôi nói, dì kể cho tôi nghe về quá khứ của dì như những gì dượng kể, thậm chí dì còn nói dì biết rất rõ lỗi không phải là ở dượng nhưng “Ai cũng có một cuộc đời mà con, dì đã nghĩ cuộc đời mình là trao tất cả cho anh Ních, dẫu biết dượng con không có lỗi mà giờ đâu kiếm ai được đổ lỗi cho nỗi khổ của dì, chi có dượng”. Tôi im lặng. Mối quan hệ của hai người là mối quan hệ của tơ duyên bị ép buộc và rốt cuộc những điều ép buộc thì chẳng thể nào mang lại kết cục an lành.
           Những tháng năm sau đó, dì vẫn sống một cuộc sống hà khắc với dượng, nhưng như dượng nói : “Khi dì còn ghét dượng là còn quan tâm dượng”,  tôi bỗng thấy thương dượng hơn rất nhiều. Mỗi lần dì say, dì lại đổ lỗi tất cả cho dượng, mắng chửi dượng, dượng chỉ im lặng lau dọn tất cả đổ vỡ dì gây ra. Nhưng rồi tuổi tác dì tôi ngày một cao, có lần dì bị tai biến, bên cạnh chỉ có dượng vò võ chăm lo. Nhiều đêm, khi nhìn dượng chong đèn chăm dì tôi bật khóc. Bỗng có một đêm, tôi thấy dì rơi nước mắt xoa mái đầu dượng đang ngủ say, nước mắt rơi ra nhưng miệng vẫn luôn nói : “Tất cả là tại anh, là lỗi của anh.” và dượng, đang giả vờ ngủ, nước mắt rơi nhưng vẫn nở nụ cười hạnh phúc, tôi chợt hiểu, ai cũng có một cuộc đời, và dẫu cuộc đời này có muộn màng thì cũng đã tới lúc bắt đầu với cả dì và dượng.


Tác giả: Lê Hứa Huyền Trân.
Hội viên Hội VHNT tỉnh Bình Định.
READ MORE - AI CŨNG NUỐI TIẾC MỘT CUỘC ĐỜI - Truyện ngắn Lê Hứa Huyền Trân

VẾT THƯƠNG NGƯỜI SAO NỞ ĐỂ TÔI MANG - Thơ Nguyễn An Bình





VẾT THƯƠNG NGƯỜI SAO NỞ ĐỂ TÔI MANG

Tôi trở về nhìn trường cũ ngổn ngang
Trường Phan mất trường Đoàn vừa đập bỏ *
Dấu chân xưa đã theo cùng bụi đỏ
Vết thương người sao nở để tôi mang.

Có một thời tiếng guốc mộc vang vang
Bên cửa lớp dãy hành lang ngút gió
Bơ vơ đứng bên tường vôi loang lở
Vết rêu buồn in từng dấu thời gian.

Chỉ còn tôi mưa tháng bảy lang thang
Buổi xa trường trôi hàng cây ngút gió
Con chim lạ đậu trên cành phượng nhớ
Đỏ một trời tình nhỏ áo mơ phai.

Gởi theo người con bướm trắng đã bay
Bên cửa lớp thuở yêu em không nói
Bài thơ nhỏ trao tay người bối rối
Chắc theo mưa và nắng thả lên trời.

Chắc theo sông và suối về biển khơi
Chỉ ở lại tình tôi sờn vai áo
Ngôi trường cũ ngậm ngùi trong mơ ảo
Tội riêng người hay tội của riêng tôi ?

                             Nguyễn An Bình
                                    9/8/2017

* Trường Phan Thanh Giản(trường nam) và Đoàn Thị Điểm(trường nữ) Cần Thơ. Sau 1975 PTG đổi tên thành Châu Văn Liêm, ĐTĐ thành trường cấp 2(nơi tôi dạy một thời gian dài đến khi nghỉ hưu). Cả hai trường vừa bị đập bỏ để xây mới.

READ MORE - VẾT THƯƠNG NGƯỜI SAO NỞ ĐỂ TÔI MANG - Thơ Nguyễn An Bình

BUỒN NHỚ CỐ HƯƠNG - Thơ Phan Thạch Giang



       Tác giả Phan Thạch Giang


BUỒN NHỚ CỐ HƯƠNG
(Tặng bào đệ Phan Thạch Nhân, bạn Vũ Phúc - Hoàng Hoa, những bạn thân của tôi có gốc gác Nhan Biều)

Gởi về cố hương bài thơ của tôi
Cho bạn bè
Có đứa còn ở lại
Có đứa đã ra đi
Có đứa mãi mãi không về
Có đứa đã lỡ quên đi 
                      một quê hương mình Quảng Trị

Gởi về cố hương bài thơ của tôi
Cho mẹ hiền tôi giờ đang yên nghỉ
Ở nơi nao hay ở tận cuối trời
Cho Chị tôi mùa Đông nhớ tôi, 
                             chị thường ngồi bên song cửa
Cho những đứa cháu, tôi chưa thuộc tên nhớ họ
Đứa còn đang ẳm ngữa
Đứa cắp sách đến trường
Và cho cô gái láng giềng dạo ấy tôi thương

Gởi về cố hương bài thơ của tôi
Hôm nay về thăm trường cũ đâu rồi !
Nguyễn Hoàng ơi - đâu một thời để nhớ ?
Ai nỡ chôn vùi kỷ niệm của tôi ?
Tôi bỗng mù lòa dưới một chiều Quảng Trị
Một chiều xưa đã mất - Nguyễn Hoàng ơi

Gởi về cố hương bài thơ của tôi
Bài thơ tôi nhớ những chàng trai
Nơi xóm nghèo quê cũ
Những chàng trai lãng mạn đa tình
Và những nàng thiếu nữ đẹp như tranh
Có những ngày vời vợi ở xung quanh
Họ nuôi mộng viễn hành
Say say tình viễn xứ
Mong ra đi tìm biển rộng sông dài
Nơi đó có một thời
Có đứa vào quân ngũ
Có đứa vui ruộng đồng
Có tôi ngồi lặng lẽ bên sông
Có đứa bước theo chồng
Có nàng thành quả phụ khi tuổi đời nàng rất trẻ
Có chính tôi cũng sách đèn, cũng rong chơi,
cũng học đòi làm thi sĩ 
                - viết bài thơ đem bán chẳng ai mua
Nên giữ mãi lặng thầm trong ký ức
Mơ một ngày xin cát trắng phủ đời thơ

Tôi về Quảng Trị quê tôi đó
Nhặt lại câu hò của mẹ xưa
Để quên đi
Quên đi những vết roi đời
Quất tím bầm thân phận
Quên đi những lắm gian truân trên vai áo bạc màu
Và có đôi lần giữa Sài gòn ta lại gặp nhau
Bên ly cà phê, nhớ ai - rồi muốn khóc.

Quảng Trị ơi.
Về đây, tôi đâu là viễn khách
Tuổi thơ tôi trước cổng đình làng
Tôi từng say nhìn từng ngôi miếu cũ rêu phong
Bài thơ thứ nhất tôi viết trên đồi cát trắng
Ở trong tôi còn những chiều sân ga rất lặng
Tiếng còi tàu xé gió giục đời trai
Tôi ra đi mối tình đầu ở lại

Suốt một đời vương mang tình gió bụi
Cố nhân ơi tìm lại biết nơi nào
Tôi lại thẩn thờ nghe cơn gió thổi lao xao

                                 Phan Thạch Giang

READ MORE - BUỒN NHỚ CỐ HƯƠNG - Thơ Phan Thạch Giang