Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Saturday, August 5, 2017

CUỐI CÙNG ANH CŨNG TÌM THẤY EM - Truyện ngắn của SONES.

Tác giả Sones.
(Lê Hứa Huyền Trân)


CUỐI CÙNG ANH CŨNG TÌM THẤY EM
Truyện ngắn của SONES.
                
Có lẽ hình bóng về người con trai ấy là hình bóng mà suốt cuộc đời này tôi khó lòng mà quên được. Nó gần như là hình bóng gắn với một nụ cười rất tươi về một cậu bé con đã để lại trong tim tôi cả một khoảng trời thơ bé. Đôi lúc hình bóng ấy trở nên mơ hồ, đôi lúc lại để lại một ấn tượng khó phai, một khoảng tiếc nuối mà có lẽ tôi dù muốn níu kéo cũng chẳng cách chi quay lại được.                
  -Trên phố chào nhau toàn đưa tay bắt như thế này à? Ở quê thì thế này này.
   Tôi đánh cái bộp vào vai Kim, nó không mạnh nhưng cũng khiến Kim ngã chúi nhủi. Đám cùng lớp kháo nhau:
   -Trai thành phố yếu nhỉ? Bị con gái vỗ nhẹ cái là đã quay lơ ra.
   Rồi cả đám cười khì, còn Kim, cậu nhìn tôi bằng ánh mắt “ ngưỡng mộ”. Kể từ đó Kim cứ lẽo đẽo đi theo tôi, ban đầu tôi cũng không để ý, nhưng sau dần thì lại thấy. Tôi hất hàm hỏi Kim:
   -Sao mày cứ đi theo tao vậy? Mày để ý tao à?
   Kim gãi đầu gãi tai:
  -Mình, mình muốn kết bạn với cậu. Mình nể cậu lắm. Cậu là con gái mà oách lắm cơ, như,.. như đại ca vậy đó.
 Tôi quẹt mũi tự hào, nghe thì có vẻ… hơi hơi lạ,   nhưng không hiểu sao được con trai khen thì đứa con gái nào lại chả thích. Hơn nữa, tôi thấy trai thành phố có vẻ lịch sự, lúc nào cũng “cậu cậu, mình mình”, còn chúng tôi, chênh nhau mấy tuổi mà hễ chơi được với nhau thì cứ “mày, tao” tất. Nhà Kim cách nhà tôi hai căn nhà, nó là cháu của bác Quang, từ nhỏ đã ở trên phố, nay ba mẹ nó bận đi làm xa, không muốn nó rày đây mai đó, bỏ dỡ việc học nên gửi nó về quê ngoại để tiếp tục theo học. Kim khá hiền so với đám trẻ ở quê và lúc nào nó cũng nhìn tôi bày trò chơi bằng những ánh mắt mở to và tròn xoe như ngộ ra điều gì đó hay lắm. Tôi là con gái mà cứ nghịch ngợm như con trai, lúc nào cũng chạy lon ton đầu têu những trò rồ trong xóm, vì thế khi Kim chạy theo tôi, cậu lúc nào cũng nói tôi chuyên những trò “ cảm giác mạnh”.
                
  Có một bận, khi tôi đang còn mớ ngủ đi “ tiểu đồng” thì nghe ở đâu đó tiếng sáo du dương vang lên, nghĩ là ma định ù té chạy thì chợt thấy bóng dáng quen thuộc, là Kim. Tôi mon men lại gần:
   -Sao mày còn chưa ngủ mà ở đây? Không sợ ma bắt hả mày?
   -Uả sao cậu còn thức, khuya rồi mà.
 -Mày lí sự. Cơ mà mày đang cầm cái gì đấy? Sáo à?   Sao trong hình dạng kì lạ thế?
   Kim cầm cây đàn nhỏ xíu trong tay cười phì:’
   -Không, đây là đàn harmonica, mình sẽ đưa lên miệng và thổi như này này.
   Đột nhiên tôi nhìn Kim, cậu như phiêu vào điệu nhạc không lời nào đó mà điệu nhạc ấy cảm động đến đỗi một đứa nhóc chẳng bao giờ biết đến âm nhạc hay những thứ lãng mạn như tôi cũng có thể ngồi nghe hết điệu. Đột nhiên cậu ngừng lại: "Đây là bản Sonate Ánh trăng, bản nhạc hay nhất dành cho đàn dương cầm, cơ mà, ở đây không có dương cầm nên mình dùng harmonica tạm.” rồi lại tiếp tục thổi. “ Mày thích nhạc lắm à?”. “ Ừ, thích lắm. Về đây rồi có rất nhiều thứ vui, thứ duy nhất không có là âm nhạc.”” Mày muốn làm nhạc sĩ à? Hay ca sĩ?”” Mình muốn làm một nghệ sĩ dương cầm”. Trai thành phố lạ nhỉ, con trai mà cứ thích phiêu theo mấy trò lãng mạn, lại còn ngồi suy tư nữa chứ, con trai chẳng phải là sẽ chạy nhảy khắp nơi, hiếu động, lúc nào cũng vô lo vô nghĩ sao? Sao ý nhị như con gái… vậy được? “ Thế khi nào mày về lại phố?” “ Mình cũng không biết, có khi mình ở lại đây luôn, nếu mình ở lại cậu có thích không?”” Chả biết, tao đi ngủ đây”.
                
   Những ngày tháng trôi qua, Kim vẫn vậy, vẫn là một chàng trai mít ướt khi nhìn thấy một chú bướm chết hay nhìn những con thiêu thân rụng cánh; vẫn tham gia vào những trò nghịch ngợm như đi hái trộm vả của lão Don rồi chậm chân bị bắt đứng khóc tỉ ti; vẫn đi bắt cào cào mỗi ngày đồng rộn về chiên xù nhưng nhất quyết không ăn; vẫn bị cua kẹp tay trong khi đứa nào cũng cả giỏ cua nhưng chả bị sứt mẻ chút nào. “ Vui không?”” Vui, nhưng hơi sợ”.” Có vui là được rồi. Ở phố mày sẽ chẳng bao giờ được chơi những trò thế này đâu. Lúc nào cũng toàn những đồ làm sẵn, đồ nhựa, đủ màu, nhưng cái gì mình tự làm ra chẳng phải vui hơn sao?”. Kim gật đầu còn tôi phì cười làm đôi mắt cười của nó híp lại.
                
   Thấm thoắt mà Kim đã ở cạnh chúng tôi một năm rồi và dẫu bản tính con người ít nhiều cũng khó mà thay đổi thì Kim cũng đã thành một chàng trai quê phần nào. Có điều cái lãng mạn thì không sao thay đổi được. Tôi vẫn hay bắt gặp cậu chàng ngồi tư lự giữa cánh đồng nhìn những cánh diều bay, những lúc ấy tôi biết rằng Kim đang nhớ gia đình da diết, cứ như tôi, chỉ cần xa mẹ một buổi là khóc lên khóc xuống rồi, huống hồ cả năm trời hai bác ấy chưa về lấy một lần. Tôi lân la lại chỗ Kim:” Mày thổi cái gì ca ca cho tao nghe đi.”” Harmonica? Bạn muốn nghe bài nào?”” Gì cũng được, miễn là nhạc”” Mà sao bạn không bao giờ gọi mình là anh nhỉ? Mình lớn hơn bạn cơ mà”.” Xùy, mày còn bắt tao gọi anh, tao ứ chơi với mày nữa đấy. Cùng lớp thì cứ mày tao đi, lí sự”. Kim bật cười sảng khoái và thôi điệu nhạc buồn hơn cả đóa bồ công anh bay lơ lửng.
                
   Thế rồi, Kim đi. Việc Kim đi khiến tôi thảng thốt đến độ không cất nên lời. Tới giờ phút cuối cùng nó vẫn không nói với tôi, tới đúng ngày hôm đó chỉ xách balo lên theo mẹ nó về lại với phố, tôi giận đến độ không thèm gặp mặt, ngồi trong nhà khóc tả tơi. Kim hẹn gặp tôi ở cây đa đầu làng nhưng tôi không tới, chỉ đến khi guồng xe lăn bánh tôi chỉ kịp nhìn cậu nhóc đang ôm khư khư chiếc balo nhìn mãi về nơi hẹn. Thằng Rí đưa cho tôi một mảnh thư nhỏ của Kim :” Lần sau gặp lại thì mình không còn cùng lớp nữa, cậu phải gọi mình là em đấy” và kèm theo đó là những đĩa nhạc của bản giao hưởng định mệnh mà dù có nghe cả đời tôi cũng chẳng thể nào hiểu hết được. Từ ngày Kim đi tôi như mất một khoảng trời của riêng tôi, một khoảng trời dành cho “ trai thành phố” của mình, tôi không nhận được thư Kim như đã hứa, không một tin tức gì. Kim cũng không về thăm bác Quang nữa, tôi đã nghĩ rằng, có lẽ ở trên đó Kim sống hạnh phúc bên ba mẹ lắm, và có lẽ cậu ấy đã có thể theo đuổi được ước mơ âm nhạc của mình.
                
   Chừng năm sáu năm sau tôi cũng lên phố kiếm việc làm, thi thoảng đi ngang qua những quán café mở những bản giao hưởng mà tôi đã nghe mòn tai tôi không khỏi chạnh lòng. Bây giờ thì Kim đang ở đâu nhỉ, tôi vẫn chưa bao giờ ngừng hỏi. Cũng có đôi lúc tôi muốn tìm Kim nhưng không có tin tức gì. Bỗng, tôi đi ngang qua một quán café, ở đó , tiếng dương cầm trong đó nghe réo rắt khiến tôi đẩy cửa bước vào. Các thực khách ở đây đều đang chìm đắm trong không gian âm nhạc mà người đó tạo dựng, tôi cũng thế, cũng tự thưởng cho mình một tách café rồi ngồi đắm chìm. Bỗng, chàng trai ấy ngay khi nhìn thấy tôi bước vào đã dừng lại, tiến đến cạnh tôi, nở nụ cười thật tươi và nói:
  - Là em phải không? Cuối cùng anh cũng đã tìm thấy em rồi.

SONES



READ MORE - CUỐI CÙNG ANH CŨNG TÌM THẤY EM - Truyện ngắn của SONES.

CHỈ CÒN LẠI NỖI NHỚ -Thơ: Hồng Thúy - Nhạc: Phạm Mạnh Cương -Giọng ca: TâmThư





CHỈ CÒN LẠI NỖI NHỚ
Thơ: Hồng Thúy
Nhạc: Phạm Mạnh Cương
Ca sĩ Tâm Thư
Hòa âm: Đặng Vương Quân
Karafun by: Dĩ Vãng Buồn

Thơ 
CHỈ CÒN LẠI NỖI NHỚ

Dấu thời gian chưa xóa
Nét buồn vương sắc mây
Đan bóng chiều rơi lối
Sương chùng lạnh thấm vai

Ngỡ rằng mình quên lãng
Dĩ vãng …đã hư không
Nhưng sao lòng khao khát
Vẫn nhớ nhung … tình hồng

Sợi khói vào… vương mắt
Gửi niềm đau chất ngất
Xuân qua… tuổi úa vàng
Còn nuối tiếc mênh mang

Như con sông… mịt mùng
Lỡ trôi cuộc tình đầu
Vòng tay nào hờ hững
Nên…đốm lửa tình tàn mau

Đôi ta… phương trời biệt
Tình rồi cũng thoáng qua
Hương tình cũng phôi pha
Nhớ thuở tình mơ hoa…

Chỉ còn là …bài thơ mầu tím

Hồng Thúy
READ MORE - CHỈ CÒN LẠI NỖI NHỚ -Thơ: Hồng Thúy - Nhạc: Phạm Mạnh Cương -Giọng ca: TâmThư

LÀNG CŨ / BÊN THỀM TRONG NGÕ VẮNG .... - Chùm thơ Lê Thanh Hùng

Tác giả Lê Thanh Hùng

Chùm thơ Lê Thanh Hùng

Làng cũ

Em qua, lóng lánh tinh khôi
Sáng xanh sắc cỏ, núi đồi quanh đây
Chậm chiều, đổ nắng tràn ngày
Bâng quơ, sợi cỏ trên tay, cầm về
                              L.T.H.

Bên thềm trong ngõ vắng

Em giấu tình
Uẩn khúc
Vào đêm
Trong ngõ tối
Giăng giăng
Sắc lạnh
Buốt
Cả những vì sao
Lóng lánh
Lệch pha tình
Se thắt bên thềm ...
                L.T.H.

Đợi mùa thu đang tới

Ta trần trụi trước em từ dạo đó
Ngón tay khô, cong cả nửa cuộc đời
Cứ quẩn quanh bên bến ngừng của gió
Trong hoàng hôn tàn úa sóng xa khơi
                          *
Biết nắng sớm sẽ về trong ngày mới
Nỗi buồn nào năm tháng cũng phôi pha
Không lời hẹn mà sao ta cứ đợi
Cứ chập chờn, ẩn ức dáng kiêu sa
                          *
Giũ kỷ niệm, bay theo làn khói thuốc
Giọt sương khuya, rơi đẩm ướt vai gầy
Cố đứng đợi một bóng hình quen thuộc
Giật mình nghe, hoang tưởng rớt đâu đây
                          *
Buông xuôi chưa? Một tầm xa diệu vợi
Tháng với ngày và nỗi nhớ bung biêng
Ngồi im nghe, gió mùa thu đang tới
Buông thả bên đường, chiếc lá khô nghiêng ...
                                        L.T.H.

Em treo tình trong nắng mùa thu

Em và bóng chiều, tựa hồ đồng lõa
Buột hồn anh trong vết nứt thời gian
Khi vệt nắng, chớm đầu thu lấp lóa
Trong khói sương xa, vờ vĩnh mơ màng
                       *
Em rối rít, bên bến đời buông thả
Đánh rơi tình trong xa vắng, kẻ tay
Lơ đễnh bước, trên đường quen dấu lạ
Có điều gì, mà mắc biếc mờ cay?
                       *
Em trộn lẫn tình anh trong chiếc lá
Vội vàng rơi đâu đó, dưới hiên nhà
Dẫu đã biết dặm đường xa, trăm ngã
Đau đáu nỗi niềm, nắng mới vờn qua
                      *
Yêu và giận, quẩn chiều vàng, như đã ...
Lặng lẽ quên, điều gì đó rất xa
Chợt cuống quýt, em tình treo vội vã
Hững hờ rơi, chiều nhơ nhẩn trượt qua

                Lê Thanh Hùng
                Huyện Bắc bình, Bình Thuận. 
                thanhhungmtbb@yahoo.com.vn


READ MORE - LÀNG CŨ / BÊN THỀM TRONG NGÕ VẮNG .... - Chùm thơ Lê Thanh Hùng

VỀ THĂM LĂNG CHÚA TIÊN - Nguyễn Thị Liên Hưng



VỀ THĂM LĂNG CHÚA TIÊN
Nguyễn Thị Liên Hưng

Làm học trò Nguyễn Hoàng – ngôi trường mang tên Chúa Tiên – trong suốt thời trung học, rồi đau đáu một nỗi niệm hoài vọng và thương tiếc ngôi trường yêu dấu mấy chục năm nay mà đây là lần đầu tiên tôi được đến dâng hương nơi Ngài yên nghỉ.

Nơi Ngài yên nghỉ cách Quảng Trị không bao xa nhưng sao bao nhiêu năm qua hiếm thấy nhắc đến? Có lẽ vì chiến tranh? Mà cũng có lẽ vì bao chuyện cơ cầu khác? Mãi cho đến khi đọc bài “Lời thầm ước trước lăng Nguyễn Hoàng” của nhà nghiên cứu Lê Quang Thái - CHS/NH (1954 -1959) trong nội san Nguyễn Hoàng tôi mới biết lăng Ngài tọa lạc ở Huế. Rồi mùa hè năm ngoái (2016), khi đọc tin “Trùng tu lăng Trường Cơ - lăng mộ của Đức Thái Tổ Gia Dũ Hoàng đế tức Chúa Nguyễn Hoàng (hay còn được gọi là Chúa Tiên”, tôi vô cùng xúc động, lòng ước ao một lần đến đó thắp nén nhang viếng Ngài.

Và thế, trong thời gian chuẩn bị về hội ngộ trường xưa lần thứ 5 tại quê nhà năm 2017, khi đọc mail của anh Nguyễn Văn Trị (Trưởng ban liên lạc CHS/NH tại Sài Gòn) thông báo sẽ tổ chức buổi lễ dâng hương tại lăng Chúa Tiên, tôi đã không nén được cảm xúc nên viết trả lời: “Cho Út đi với anh Trị ơi!” (vì anh thường gọi tôi là cô út Nguyễn Hoàng dù tôi chỉ áp út thôi), thế là tên tôi đã được ghi vào danh sách CHS/NH viếng lăng Chúa Tiên.

Rồi cũng đến ngày ấy, sau hội trường 15/07 hai ngày. Tôi không thể nói hết nỗi bồi hồi, xúc động của mình khi khoác lên người chiếc áo pull có in logo ngôi trường thân yêu và dòng chữ Nguyễn Hoàng để về thăm Chúa.
          
Ngày hôm trước đi thăm làng Trung Đơn mưa gió não nề vì áp thấp nhiệt đới. Đêm đó cũng mưa suốt đêm nhưng lòng đã quyết nên không ai chùn bước. May sao sáng ra mưa tạnh, trời chưa quang nên không khí mát mẻ dễ chịu. Hai chiếc xe chở đầy trên 30 cư dân Nguyễn Hoàng phương xa rời thành phố Đông Hà trực chỉ thành phố Huế. Những người trong đoàn nói vui: Chúa Tiên thật anh linh, mấy ngày trước trời mưa nên không khí mùa hè nơi này dịu lại, vì thế ngày hội trường nắng ráo và mát mẻ giúp thuận lợi cho buổi hội ngộ thầy trò giữa sân trường xưa. Nhưng chỉ vào chiều hôm đó – khi buổi họp mặt đã kết thúc thì trời đổ mưa ầm ào, mưa như trút đến cả ngày hôm sau rồi hôm nay khi đoàn CHS/NHSG đi thăm lăng Ngài thì đẹp trời trở lại. Theo tôi, không chỉ là nói vui mà sự thật là thế! Sự thật ấy đã được chứng minh qua 5 lần hội trường ở Quảng Trị. Có lẽ cảm tấm lòng của những hậu duệ của mình nên Ngài thương xót thầy trò chúng ta nên đã xui khiến mưa thuận, gió hòa trong ngày những cánh chim lạc tìm về tổ cũ.

Theo sử sách, sau khi qua đời Ngài được chôn cất tại núi Thạch Hãn huyện Vũ Xương (nay thuộc huyện Triệu Phong - tỉnh Quảng Trị). Sau đó, không rõ thời điểm nào, các chúa Nguyễn đã cải táng và xây dựng lăng mộ Ngài tại vị trí hiện nay (thôn La Khê Trẹm, xã Hương Thọ, Thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế). Đến năm 1808, lăng mộ chúa Nguyễn Hoàng được vua Gia Long cho tái xây dựng và đặt tên là lăng Trường Cơ. Vào năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), lăng Trường Cơ tiếp tục được sửa sang, xây dựng thêm nhưng rồi qua bao năm chiến tranh, loạn lạc, nơi an nghỉ của Ngài rơi vào lặng lẽ, hiếm người biết đến cho đến ngày nay...

Lối tìm về lăng quanh co, chật hẹp, chúng tôi vừa đi vừa dừng xe lại hỏi thăm đường. Người ta bảo lăng Ngài cách lăng Gia Long 3km. Thế là đoàn ghé thắp nhang viếng nơi an nghỉ của vua Gia Long và hoàng hậu – vị vua có công thống nhất sơn hà, sau đó đoàn tiếp tục di chuyển về lăng Trường Cơ, nơi yên nghỉ của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng – Vị Chúa có công đặt nền móng cho việc mở mang bờ cõi về phía nam vào giai đoạn nửa cuối thế kỷ thứ 16, để đất nước Việt Nam có hình cong chữ S như ngày hôm nay.

Cả một vùng trời đất thoáng đãng vỡ òa trước mắt tôi, trước lối vào lăng là tấm bia ghi:

NGUYỄN PHÚC TỘC
HỆ NHÌ
LĂNG TRƯỜNG CƠ, ĐỨC THÁI TỔ GIA DŨ HOÀNG ĐẾ,
HÚY NGUYỄN HOÀNG (1525 – 1613)
THỜI GIAN TRỊ VÌ (1558- 1613)

Bên góc trái tấm bia có ghi dòng chữ nhỏ: Hội đồng trị sự Nguyễn Phúc Tộc phụng lập năm 2004.

Qua lối đi bên hồ sen bát ngát chúng tôi tiến vào lăng Trường Cơ, tọa lạc bên tả ngạn dòng Tả Trạch, cách bờ sông khoảng 300 mét, cách trung tâm Huế 10 km về phía tây nam. Lối kiến trúc lăng Trường Cơ không rộng lớn, nguy nga, tráng lệ hay cổ kính như các vị vua triều Nguyễn đời sau mà trái lại đơn giản, bình dị nhưng vẫn toát lên sự thiêng thiêng, uy vũ của một vị Chúa Tiên tài ba mà nhân hậu. Tam quan với bốn cột trụ thẳng tắp hướng lên trời, phía trước là những bậc tam cấp bến xuống hồ sen. Đoàn dừng lại trước nhà bia vừa trùng tu vào giữa năm 2016 và nhẩm đọc những hàng chữ mà nhà sử học Phan Huy Lê đã chắp bút phụng soạn bài văn ghi gia thế và tôn vinh công trạng Ngài. Tôi dừng lại lâu hơn ở những dòng chữ cuối: “Nay với sự đóng góp tri ân của hậu thế, Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế đã trùng tu, tôn tạo lăng Trường Cơ để mãi mãi ghi nhớ công lao sự nghiệp của một vị chân chúa khai cơ một vương triều, một anh hùng mở cõi của dân tộc Việt Nam”.

Vậy đó! Chân Chúa muôn đời vẫn là Chân Chúa. Anh hùng thì mãi mãi vẫn là anh hùng, huống chi Ngài còn là “một anh hùng mở cõi của dân tộc Việt Nam”. Hậu thế đã không và sẽ không bao giờ quên ơn của tiền nhân, vì đó là đạo lý và lương tâm của hai chữ con người. Còn sự phán xét của lịch sử sẽ phải công bằng cho dù qua một giai đoạn nào đó có bị đổi trắng thay đen đi nữa.

Hoa quả được bày lên bàn thờ, những CHS/NH nay tuổi đã trên 60 kính cẩn dâng lên Ngài nén hương tưởng niệm, tri ân và những lời khấn nguyện tự tâm can. Mong Chúa Tiên hiển linh phò hộ cho nguyện ước của thầy trò Nguyễn Hoàng sớm được hoàn thành; sớm có được một ngày vui - ngày hòa nước mắt trong nụ cười khi tên trường Trung Học Nguyễn Hoàng – Quảng Trị được phục hồi trên nền đất cũ.

Mà nguyện ước ấy chắc cũng không xa, vì các nhà khoa học và các cơ quan chuyên môn đã đưa ra một số đề xuất để UBND tỉnh Quảng Trị xem xét, quyết định: Dựng tượng đài chúa Tiên Nguyễn Hoàng; xây dựng Bảo tàng lịch sử thời chúa Nguyễn và thư viện mang tên Nguyễn Hoàng; đặt tên cho 1 ngôi trường mang tên Nguyễn Hoàng tại thị trấn Ái Tử (cùng với đó, đổi lại tên cho Trường Trung Học Nguyễn Hoàng ở thị xã Quảng Trị); xây dựng các công trình tưởng niệm: Đền thờ các chúa Nguyễn và công thần; tổ chức lễ hội “Ái Tử và hành trình mở cõi” theo định kỳ, trước mắt tổ chức lần đầu vào dịp kỷ niệm 460 năm chúa Tiên Nguyễn Hoàng định đô ở Ái Tử.

Sau khi chụp vài tấm ảnh lưu niệm, đoàn rời lăng Trường Cơ. Ánh nắng ấm áp, dịu dàng trải xuống vạn vật như tấm lòng vị Chúa Tiên nhân hậu gởi tình thương cho đám học trò một lòng, một dạ thủy chung như nhứt với ngôi trường mất tên nhưng chưa - và không bao giờ mất trong lòng những thầy cô, học trò từng một thời được mang hai chữ Nguyễn Hoàng đỏ thắm trên trên trái tim mình.
Xin cúi mình kính lạy từ giã nơi Ngài an nghỉ và cầu mong một ngày số lượng CHS/NH đông đảo và hớn hở, vui tươi về tế lễ lăng Ngài trong chuyến hội trường mang tên PHỤC HỒI TRƯỜNG TRUNG HỌC NGUYỄN HOÀNG – QUẢNG TRỊ.

                                     Nguyễn Thị Liên Hưng
                                         (CHS/NH 69-75)

                                                                                    
READ MORE - VỀ THĂM LĂNG CHÚA TIÊN - Nguyễn Thị Liên Hưng

EM CÓ NHỚ KHÔNG - Thơ Phong Nguyễn

Tác giả Phong Nguyễn


EM CÓ NHỚ KHÔNG
Phong Nguyễn

Em về phố rồi, có nhớ không
Vườn sau nắng chỉ mới chớm hồng
Gió nghe chừng lạ ngoài khe cửa
Mắt mẹ buồn tênh cứ ngóng trông
Em về phố rồi, có nhớ không
Bãi bồi bắp nụ mới vừa bung
Bên sông ngược gió con chuồn cỏ
Thả mặc chiều trôi nước một dòng
Em về phố rồi, có nhớ không
Sao để chiều nay hoa cải ngồng
Thương con bướm trắng còn lơ đãng
Vẽ bóng hoàng hôn giữa hư không
Em về phố rồi, có nhớ không
Từ khi ai bỏ cuộc... theo chồng
Hoa xoan đã rụng bao mùa vắng
Vương lai thời gian chỉ chút nồng
Chao ôi!
Xuân hạ... Với.... thu đông
Em đi về phố... Mặc người trông...

5-8-2017
PN
phongnguyen.2602@yahoo.com
READ MORE - EM CÓ NHỚ KHÔNG - Thơ Phong Nguyễn

THỊ TRẤN BẠCH DƯƠNG (Kỳ 1/3) - Tác giả: Alice Munro - Chuyển ngữ: Nguyễn Đức Tùng




THỊ TRẤN BẠCH DƯƠNG (1/3)
Alice Munro
♦ Chuyển ngữ: Nguyễn Đức Tùng. 
♦ 2.08.2017.
Nguyên tác: “Amundsen” (*) trong tuyển tập Dear Life: Stories (Cuộc đời yêu dấu) (Alfred A. Knopf: 2012)
Lời Tòa Soạn (Da Màu):
Tuy nhà văn Alice Munro đã đánh lạc hướng người dịch bằng cách cho nhân vật nữ – Vivien Hyde – đề cập đến khung cảnh trong truyện như được mượn từ một tiểu thuyết Nga, “Thị trấn Bạch Dương” thật ra làm người đọc liên tưởng đến Jane Eyre của Charlotte Bronte. Tại sao Jane Eyre, như truyện Lọ Lem, lại thu hút nhiều nhà văn từ nhiều truyền thống văn chương khác nhau? Trong một khía cạnh nào đó, truyện "Amundsen" của Alice Munro là một cách "dịch lại" Jane Eyre, tuy nhân vật bác sĩ Alister Fox (tên họ Fox có nghĩa là “cáo già”) trong truyện này thô bạo và khó hiểu hơn Rochester, cũng như Vivien Hyde chỉ mới là Jane Eyre ở "ngoài vỏ" (Hyde (hide) có nghĩa là làn da bọc bên ngoài xương cốt. Ở thời điểm trong truyện, cô giáo Vivien tuy thông minh nhưng chưa dám/chưa biết thực sự sống từ bên trong, mà chỉ biết sống qua sách vở, và để cho mình bị kéo theo hoàn cảnh và thế lực của một người đàn ông già dặn hơn. Thế giới lạnh lẽo mà cô bước vào là thế giới của đàn ông, mang tên một nhà thám hiểm Bắc và Nam Bán Cầu người Na uy tên là Roald Amundsen. Nhà văn Nguyễn Đức Tùng đã dịch tựa truyện rất hay là Thị trấn Bạch Dương — thế giới bạch hóa của nam giới, sự bạch hoá tàn ác như truyện Bạch hoá của Cung Tích Biền, hay màu trắng cá voi trong tiểu thuyết Moby Dick của văn hào Mỹ Herman Melville.

Kỳ 1.

Tôi ngồi chờ trên băng ghế phía ngoài nhà ga. Cửa nhà ga mở mỗi khi tàu điện đến, nhưng nay đang đóng lại. Một người đàn bà ngồi đầu kia ghế, giữa hai đầu gối giữ một cái túi có dây cột, đầy những gói nhỏ bằng giấy dầu. Thịt – thịt sống. Bạn có thể ngửi được mùi ấy.
Bên kia đường tàu là chiếc tàu điện, không khách, đứng chờ.
Không một hành khách nào tới cả, sau một lúc người trưởng ga thò đầu ra ngoài gọi to “San.” (1) Mới đầu tôi tưởng ông ta gọi người nào đó tên Sam. Một người đàn ông mặc đồng phục đi tới, vòng quanh góc tòa nhà. Anh ta băng qua đường xe lửa, lên toa tàu điện. Người đàn bà với gói giấy đi theo anh ta, tôi cũng làm thế. Có tiếng la gọi từ hai bên đường và cánh cửa lem luốc của tòa nhà mái bằng bật mở, một vài người đàn ông chạy ra, đầu đội mũ, xách những cái lon bới thức ăn trưa va đập vào đùi. Nghe tiếng lao xao cứ tưởng tàu sắp chạy ngay trong vài phút. Nhưng khi họ đã ngồi an vị, chẳng có gì xảy ra cả. Chiếc tàu điện vẫn đứng yên khi họ đếm số người, xem thử có ai đó không kịp lên xe, và bảo người tài xế đừng chạy vội. Thế là có người nhớ lại đó là ngày nghỉ của một người kia, nay không có mặt. Chiếc xe điện bắt đầu chạy, mặc dù tôi không biết tài xế có nghe họ nói gì không, hay có thèm để ý không.
Tất cả bọn đàn ông đều xuống tàu ở chỗ nhà máy cưa gỗ, gần bên bụi rậm – không quá mười phút đi bộ – ngay sau khi cái hồ hiện ra trước mặt, đầy tuyết phủ. Một dãy nhà bằng gỗ trắng dài phía trước. Người đàn bà cặm cụi sửa lại túi đựng thịt sống, đứng lên, và tôi đi theo bà. Người tài xế gọi lần nữa, “San,” những cánh cửa mở ra. Vài người đàn bà đang đứng phía dưới, chờ lên tàu. Họ chào người đàn bà có gói thịt trên tay, cô ta bảo họ đó là một ngày ăn thịt sống.
Mọi người tránh nhìn vào mặt tôi, khi tôi bước xuống sau lưng người đàn bà.
Không ai chờ nữa ở trạm xe này. Những cánh cửa đóng sập, chiếc tàu điện quay lại đường cũ.
Kế đó là im lặng, bầu không khí lạnh như nước đá. Những cây bạch dương mỏng mảnh với những vết đen trên vỏ cây màu trắng, những bụi cây thường xuân mọc rời rạc như bầy gấu đang ngủ đông. Mặt hồ băng giá không bằng phẳng mà ụ lên cao vòng theo bờ, như thể những làn sóng chưa kịp rút xuống thì đã đóng thành băng. Và toà nhà phía sau với những cánh cửa sổ và những cầu làm bằng kính ở cuối đường. Mọi thứ đều xinh đẹp và có dáng vẻ miền Bắc, đen và trắng ở dưới những vòm mây trời cao vòi vọi. Và toà nhà phía sau những dãy cửa sổ quy củ và hai vòm hiên lắp kiếng phía trước và sau nhà. Mọi thứ trông hà khắc với dáng vẻ miền Bắc, đen và trắng ở dưới những vòm mây trời cao vòi vọi.
Nhưng vỏ cây bạch dương không trắng như bạn tưởng, khi tới gần. Vàng hơi xanh, xanh hơi xám, xám.
Mọi vật yên tĩnh, đứng yên lớn rộng như khúc nhạc du dương.
“Cô bạn đi đâu?” người đàn bà xách túi thịt gọi với về phía tôi. “Giờ đến thăm bệnh đã qua lúc ba giờ.”
“Tôi không phải là khách đến thăm,” tôi nói. “Tôi là cô giáo.”
“Họ không cho cô vào cửa chính, dù thế nào đi nữa,” người đàn bà nói với vẻ hài lòng. “Cô nên đi theo tôi. Không mang cả vali à?”
“Người trưởng ga nói rằng anh ta sẽ mang tới sau.”
“Cô đứng đó nhìn có vẻ như lạc đường.”
Tôi nói rằng tôi đứng đó vì thấy cảnh quá đẹp.
“Một vài người cũng nghĩ thế. Nhưng họ sẽ đổi ý nếu mắc bệnh hoặc quá sức bận rộn.”
Không ai nói gì nữa cho đến khi chúng tôi bước vào căn bếp ở cuối toà nhà. Tôi không có dịp nào để nhìn quanh cả vì đôi ủng của tôi bắt đầu sinh chuyện.
“Cô nên cởi mấy đôi ủng này ra trước khi chúng tạo ra vết bẩn trên sàn nhà.”
Tôi loay hoay tháo chúng ra – không có ghế để ngồi – đặt chúng lên tấm thảm nhỏ nơi người đàn bà cũng để những đôi ủng của mình.
“Cô nên xách ủng theo vì tôi không biết người ta sẽ sắp xếp cô ở đâu, cô nên mang theo áo choàng vì không có lò sưởi ấm ở phòng giữ mũ áo.”
Không có lò sưởi, không có ánh sáng, trừ ánh sáng chiếu ra từ một cửa sổ nhỏ cao quá tầm tay với. Giống như bị trừng phạt ở nhà trường. Gởi – đến – phòng – giữ – mũ – áo. Đúng vậy. Giống hệt mùi của áo quần mùa đông không bao giờ được phơi khô, của những đôi ủng ướt đẫm thấm vào tận những đôi vớ bẩn, những bàn chân không rửa.
Tôi trèo lên một cái băng ghế nhưng vẫn không thấy rõ bên ngoài. Trên những kệ gỗ nơi người ta ném khăn quàng và mũ tôi tìm thấy một cái túi có trái vả và trái chà là. Một kẻ nào đó đã ăn cắp mấy thứ này và giấu chúng ở đây để mang về nhà. Bỗng tôi thấy đói. Chưa ăn gì cả từ sáng, trừ một cái bánh kẹp pho mát. Tôi ngần ngại, suy nghĩ về việc ăn trộm một vật của một kẻ trộm. Nhưng rồi những trái vả kia sẽ dính vào răng và tố cáo tội lỗi của tôi.
Tôi leo xuống vừa đúng lúc, một người nào đó đang bước vào phòng. Không phải người giúp việc nhà bếp mà là một cô bé học sinh với một cái áo khoác mùa đông dày cộp, khăn quàng trùm kín đầu. Cô bé bước vào rất vội, ném sách vở lên băng ghế khiến chúng rơi tung tóe lên sàn, giằng khăn quàng ra khiến mái tóc xổ tung, và cùng lúc đôi ủng đá vào nhau bật ra lăn lông lốc trên sàn nhà. Rõ ràng là không có ai coi chừng con bé, bảo nó phải đặt giày ủng ở ngay cửa.
“Này tôi không cố ý tông vào cô đâu nhé,” con bé nói. “Ở đây tối quá, không biết đằng nào mà lần. Cô có lạnh không? Đứng đây chờ ai vậy?”
“Tôi chờ bác sĩ Fox.”
“Thế thì không phải chờ lâu đâu, tôi mới đi phố về với ông ấy. Cô không bị bệnh chứ? Nếu bị bệnh thì cô không đến đây được, phải chờ ông ta ở trong phố.”
“Tôi là cô giáo.”
“Thế à? Có phải cô đến từ Toronto?”
“Vâng.”
Dừng lại một lát, có lẽ là sự kính trọng.
Nhưng không, đang ngắm nghía cái áo choàng của tôi.
“Đẹp quá. Trên cổ áo là lông con gì thế?”
“Cừu Ba Tư. Thật ra đây là thứ giả lông thú.”
“Lầm chết. Em không biết tại sao người ta để cô đứng đây, lạnh đến tê mông mất. Xin lỗi cô nhé. Cô muốn gặp bác sĩ em có thể chỉ cho. Em biết mọi nơi mọi góc, em sống ở đây từ hồi mới sinh. Mẹ em là người cai quản nhà bếp. Tên em là Mary. Tên cô là gì?”
“Vivi. Vivien.”
“Nếu cô là cô giáo thì em phải xưng hô như thế nào?”
“Gọi tôi là Cô Hyde.”
“Thưa Cô Hai,” nó nói (2). “Xin lỗi, em chợt nghĩ ra thế. Em thích cô là cô giáo của mình nhưng em phải đi học trong thành phố. Đó là một quy định xuẩn ngốc. Bởi vì em không bị bệnh lao phổi.”
Trong khi trò chuyện con bé kéo tôi đi xuyên qua cánh cửa ở cuối phòng mũ áo, rồi đi dọc hành lang của bệnh viện. Vải bạt phủ bóng. Sơn xanh buồn tẻ, mùi thuốc sát trùng.
“Bây giờ cô ở đây rồi thì Reddy sẽ cho phép em chuyển đổi.”
“Reddy là ai vậy?”
“Reddy Fox. Từ một cuốn sách. Em và Anabel bắt đầu gọi ông bác sĩ như thế.”
“Thế Anabel là ai?”
“Không là ai nữa. Con bé chết rồi.”
“Ồ, cô xin lỗi.”
“Không phải lỗi của cô. Chuyện đó thì quá thường ở đây. Năm nay em lên trung học. Anabel chưa bao giờ đến trường cả. Khi em còn ở trường công lập thì Reddy dặn cô giáo cho phép em ở nhà rất nhiều để em bầu bạn với nó.”
Cô bé dừng lại trước một cánh cửa mở hé và huýt sáo.
“Hey. Em dẫn cô giáo đến đây này.”
Giọng một người đàn ông vang lên, “Được rồi Mary. Một ngày vậy là đủ rồi.”
Nó rời phòng với điệu bộ tung tăng và để tôi đứng đối diện với một người đàn ông tầm thước trung bình, mái tóc đỏ cắt rất ngắn và chiếu lấp lánh trong ánh sáng giả tạo từ hành lang.
“Thế là cô đã gặp Mary,” ông ta bảo. “Con bé có nhiều chuyện để nói về nó đấy. Nó không học lớp cô nên chuyện ấy sẽ không xảy ra mỗi ngày. Mọi người hoặc là thích nó hoặc là không.”
Ông ta xuất hiện như một người lớn hơn mười đến mười lăm tuổi và thoạt đầu cũng nói chuyện với tôi theo kiểu của một người lớn. Một ông chủ tương lai bận rộn. Ông ta hỏi tôi về chuyến đi, chỗ để vali của tôi. Ông ta muốn biết làm sao tôi có thể sống trong rừng sau khi đã sống ở Toronto. Liệu ở đây một thời gian có chán không.
Không phải là nơi đáng chán nhất, tôi nói thế, và thêm quang cảnh ở đây cũng đẹp.
“Nó giống như – nó giống như là trong một tiểu thuyết Nga.”
Ông ta nhìn tôi chăm chú lần đầu tiên.
“Vậy hả? Cô nói cuốn tiểu thuyết Nga nào?”
Đôi mắt ông ta xanh trong, sáng. Lông mày nhướn lên một bên, như một cái mũ nhọn be bé.
Không phải là tôi chưa từng đọc tiểu thuyết Nga. Tôi đã đọc một vài, đọc hết hoặc đọc giữa chừng. Nhưng bởi vì hàng lông mày của ông ta, cách biểu lộ tuy lý thú nhưng có phần thử thách, làm tôi chẳng còn nhớ cái nhan đề truyện nào cả ngoài Chiến Tranh và Hòa Bình. Tôi không muốn nói cái tên ấy vì có vẻ như ai cũng nhớ được thế.
“Chiến Tranh và Hòa Bình.”
“Ồ, vậy thì chỉ có hòa bình ở đây thôi. Tôi có thể nói thế. Nhưng nếu cô đã muốn chiến tranh thì tôi đoán hẳn cô đã tham gia vào một hội đoàn phụ nữ để có dịp đi đây đó ra nước ngoài.”
Tôi tức giận và cảm thấy bị tổn thương vì tôi không hề có ý khoe khoang. Hoặc không chỉ khoe khoang mà thôi. Tôi muốn nói là khung cảnh xinh đẹp đã ảnh hưởng đến tôi ra sao.
Ông ta rõ ràng là một loại người thích đặt những câu hỏi để người khác xụp bẫy.
“Tôi cứ chắc mẩm là sẽ đón một cô giáo già,” ông ta nói, hơi có vẻ xin lỗi. “Như thể bất cứ người nào tương đối đứng tuổi và có đủ trình độ có thể đi làm việc trở lại trong thời buổi này. Cô không phải đi học để làm cô giáo, đúng thế không? Ý tôi hỏi là cô tính làm gì sau khi học xong cử nhân?”
“Tôi muốn học lên cao học.” Tôi trả lời ngắn.
“Vậy thì cái gì đã làm cô đổi ý?”
“Tôi nghĩ tôi cần một ít tiền.”
“Rất đúng. Mặc dù tôi e rằng cô cũng chẳng kiếm được nhiều tiền ở đây đâu. Xin lỗi vì tôi hơi tọc mạch. Tôi chỉ muốn biết chắc là cô sẽ không bất ngờ bỏ đi khiến chúng tôi lại phải lao đao. Chưa tính lập gia đình chứ?”
“Không.”
“Thôi được rồi. Cô không bị tra vấn nữa đâu. Tôi không làm cô nản chứ, có đến nỗi thế không?”
Tôi quay đầu đi.
“Không.”
“Đi dọc xuống hành lang tới chỗ văn phòng của Matron và cô ta sẽ nói thêm với cô nhiều việc cần biết. Cô sẽ dùng bữa với các cô y tá. Cô ấy sẽ chỉ chỗ ngủ cho cô. Đừng để bị cảm lạnh. Tôi không nghĩ là cô có kinh nghiệm gì về bệnh lao phổi?”
“Ồ tôi có đọc qua – ”
“Tôi biết. Tôi biết. Chắc là cô đã đọc Ngọn Núi Thiêng.”
Một cái bẫy lại giăng ra nữa nhưng giờ ông ta có vẻ hài lòng. “Mọi việc đã khá hơn trước, tôi hy vọng thế. Đây, tôi có soạn một số nhận định về trẻ con ở nơi đây và về những điều tôi nghĩ là cô có thể muốn thực hiện với chúng. Đôi khi tôi cảm thấy tốt nhất là thể hiện ý tưởng của mình bằng cách viết xuống. Matron sẽ cho cô biết đầy đủ chi tiết.”
Tôi ở chưa đến một tuần thì tất cả những sự kiện của ngày đầu tiên đã trở nên kỳ lạ và khó tin. Căn bếp, phòng để mũ áo trong đó nơi những công nhân treo áo quần và giấu những đồ ăn cắp, là cái phòng mà tôi đã và chắc sẽ không quay lại nữa. Văn phòng của bác sĩ cũng vậy, không có ai tới, phòng của Matron là nơi thích hợp cho mọi người tới đó thắc mắc, than phiền và sắp xếp công việc thường ngày. Matron là một người đàn bà lùn, mập, mặt đỏ bừng, mang kính không có gọng, thở nặng nhọc, bất cứ chuyện gì mà bạn hỏi cũng làm cô ta ngạc nhiên và gây ra những việc khó khăn, nhưng rồi cuối cùng cũng được thu xếp hay được mang lại. Đôi khi cô ta dùng bữa ở phòng ăn của y tá, được thết đãi đặc biệt, nhưng tạo cho mọi người bầu không khí tẻ lạnh. Nhưng thông thường thì cô ta chỉ ngồi ở khu vực của mình.
Ngoài Matron ra còn có ba người nữ y tá, nhưng không ai ở lứa tuổi ba mươi như tôi cả. Họ đã về hưu nhưng vẫn tới đây làm việc, thực hiện bổn phận trong thời chiến. Rồi có những người hộ lý, vào cỡ tuổi của tôi hay trẻ hơn, hầu hết đều đã có gia đình hay hứa hôn hay sắp hứa hôn, đa số có chồng hoặc hôn phu đi lính. Lúc nào họ cũng trò chuyện, nếu Matron và các y tá không có mặt ở đó. Họ không hề để ý đến tôi. Họ chẳng cần biết Toronto là thành phố thế nào, mặc dù có một số người biết người quen của họ tới đó để hưởng tuần trăng mật, và họ cũng không quan tâm đến việc dạy học của tôi hay tôi đã làm gì trước khi đến nhận nhiệm sở ở khu điều dưỡng này. Không phải vì họ là những người khiếm nhã- họ chuyển cho tôi dĩa bơ (được gọi là bơ nhưng thực ra là một loại dầu thực vật màu vàng, được nhuộm màu ở trong nhà bếp như là phương thức hợp pháp thời đó) và họ cũng khuyên tôi đừng ăn rằng món bánh nhân thịt băm với khoai tây hầm vì có thể có thịt chuột chũi bên trong. Chẳng qua là họ không màng tới những việc xảy ra ở những nơi chốn mà họ không biết, cho những người mà họ không quen, hay trong những thời đại mà họ mù mờ. Những điều đó làm họ bối rối, bực mình. Họ tắt máy thu thanh mỗi khi gặp chương trình tin tức và chỉ nghe ca nhạc mà thôi.
“Nhảy múa với một ả mang vớ có lỗ thủng…”
Cả y tá lẫn những người hộ lý đều không thích đài phát thanh CBC là chương trình phát thanh mà từ nhỏ đến lớn tôi vẫn tin tưởng là mang lại nền văn hóa cho những vùng đất sâu hẻo lánh. Họ có vẻ rất ngưỡng mộ bác sĩ Fox một phần vì ông ta đọc nhiều sách vở.
Họ cũng nói rằng chẳng có người nào như ông ta có thể lột trần tất cả nếu ông ta muốn.
Tôi không thể hình dung được làm sao họ lại có được mối liên hệ giữa việc đọc sách vở và việc lột trần một người.
(còn tiếp hai kỳ)

Chú thích:
(*) tên một nhà thám hiểm nổi tiếng người Na Uy, Roald Amundsen. Ở Canada, là tên của một địa danh. Phía bắc Toronto có một thị trấn nhỏ có tên như vậy.
(1) San, cách gọi tắt của sanatorium, trại điều dưỡng, ngày trước thường là trại cách ly những bệnh nhân lao.
(2) Trong nguyên tác, tác giả chơi chữ, “tan your hide”. Có sự đồng âm giữa họ cô giáo Hyde và chữ hide trong câu này. Khi dịch, chúng tôi chọn “cô Hai” để đồng âm với Hyde.

READ MORE - THỊ TRẤN BẠCH DƯƠNG (Kỳ 1/3) - Tác giả: Alice Munro - Chuyển ngữ: Nguyễn Đức Tùng