Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Wednesday, July 26, 2017

CHUYỆN HAI MÁ CON - Lê Hứa Huyền Trân


Tác gỉa Lê Hứa Huyền Trân

CHUYỆN HAI MÁ CON
Lê Hứa Huyền Trân
           
            Ngày con gái còn bé, con gái lúc nào cũng quanh quẩn bên má, mỗi ngày của má là những ngày nhìn con gái lẫm chẫm đi, đôi khi không hiểu nổi hình hài bé bỏng ngày nào còn trong bụng, rồi ngày tháng chào đời, rồi tới lúc nằm nôi, những khoảnh khắc ấy cứ trôi qua và con gái lớn đến được nhường này. Khi con gái bước những bước đi đầu tiên, con gái vấp ngã, con gái không khóc, nhưng không hiểu sao tự nhiên thấy má lại con gái khóc òa lên. Trông con gái “ khôn vặt” như thế chẳng hiểu sao má lại bật cười. Từ ngày con gái còn nhúm tóc trên đầu, má cứ lo con gái má sau này ít tóc như thế thì lấy chồng sao được, ba cứ chọc, mới tí tuổi đầu đã tính tới chuyện chồng con.
            
Lúc con gái vào lớp một, mặc cho con gái chiếc áo trắng mà mất cả tháng trời má lựa qua lựa lại chẳng hiểu sao nước mắt má lại rơi. Ba cứ rầy má lựa áo thôi mà mất cả tháng trời sàng qua sàng lại rồi cũng lấy cái áo như lúc đầu, má rầy lại ba: "Con gái cưng của tui lần đầu tiên đi học”. Con gái cứ tron xoe mắt nhìn hai người cãi nhau rồi vỗ tay bộp bộp, trông con gái lúc ấy vô tâm ghê cơ, tán thưởng chuyện ba má cãi nhau mới chịu. Ngày đầu con gái đến trường, má đẩy con gái về phía cô giáo, con gái thấy bạn bè cùng lứa, con gái vui lắm cơ, sốc lại cái cặp nhỏ xíu, con gái lững thững bước, má buông tay con gái. Nhưng tự nhiên con gái đứng lại, quay lại nhìn má rồi chạy tới ôm chặt cái chân. Hỏi miết con gái không nói, chừng sau mới bập bẹ:
Má, má không đi học với con à?
Má phì cười trêu con gái:
-Đi học là lớn rồi con nhé. Má không theo tới trường được. Ở trường có bè bạn, có cô giáo, chăm lo cho con gái như má chăm vậy.
Con gái dùng dằng dỗi giận miết nhưng rồi cũng hùa lại theo chúng bạn. Có chút xa lạ, có chút sờ sợ nhưng
rồi con gái cũng quen. Con gái đi học con gái vui, má có hơi buồn vì niềm vui ở trường không có má trong đó, nghe con hào hứng kể má có hơi lẫy. Ba bụm miệng cười chuyện má trẻ con, con gái đưa hai tay bấu chặt đôi bờ má nhìn sâu vào mắt má rồi lại khóc. Má cuống cuồng:
- Sao con khóc?
-Con kể chuyện làm má không vui. Vậy con không kể nữa. 
Má ôm con vào lòng. Tự trách má trẻ con. Con gái lớn dần lên, vẫn còn nài má cắt cho mấy bông hoa đủ màu sắc làm dán vở. Cô giáo bảo mỗi vở dán một bông hoa một màu khác nhau ở ngoài, vở tiếng Việt màu đỏ, vở mĩ thuật màu tím, vở thủ công màu vàng… Con gái hào hứng lắm, cứ tranh làm nhưng vẫn vòi má ghi chữ vào vì chữ con gái không được đẹp. Con gái suốt ngày ngồi tô tô vẽ vẽ, rồi nắn nót viết chữ vào nhãn vở rồi dán thật kĩ vào vở, con gái thấy vui.
            
Con gái vào cấp hai, con gái bước vào tuổi dậy thì, má thấy con gái khác. Con gái bắt đầu biết e thẹn, biết ngại ngùng, con gái lại hay lén lút giấu má một mảnh thư nào đó, chắc là của chàng nào đó viết vội. Rồi con gái buồn, con gái bắt đầu biết khóc nhưng con gái giấu má không cho má biết. Cho tới một ngày con gái lại nói với má:
- Má à, con thích một ai đó.
Một ai đó là ai con?
- Một cậu bạn cùng lớp, nhưng cậu ấy từ chối con rồi. 
Con gái vục mặt vào lòng má nức nở, má vỗ về con gái. Mãi tới sau này thỉnh thoảng con gái vẫn hay hỏi:
- Sao ngày đó má không rầy con khi tí tuổi đầu mà thích? 
Má trả lời:
- Vì đó là cảm xúc đầu tiên của con. Má trân trọng chứ không cấm đoán, cho tới một lúc nào đó, khi trưởng thành hơn, khi nhớ lại, con hẳn sẽ cảm thấy vui và thấy mình thật non nớt cho những ngày tháng đó. Miễn là con biết chừng mực và biết dừng lại con à.
Cảm nắng những ngày còn nhỏ, con gái cũng mau quên, chẳng mấy chốc má hỏi lại con gái đã quên tuốt. Việc thích một ai đó sẽ trở thành một kỉ niệm trong con chứ con gái vẫn chưa đủ trưởng thành để lưu giữ. Cho tới ngày con gái bước vào cấp ba, con gái bắt đầu biết sửa soạn. Má thấy con gái lớp mười một mà trưởng thành phổng phao quá nhiều anh cũng ngấp nghé để ý, con gái lại ngày càng biết ăn diện hơn. Má rầy con gái:
-Mắt gì mà bầm tím, tóc gì mà đủ màu.
Con gái chê má nhà quê không biết thế nào là tóc high-light, mắt kẻ viền hợp mốt. Rồi con gái ngúng nguẩy con gái đi chơi, má tự nhiên trong lòng mất cả một khoảng trời nào đó không rõ. Con gái lớn dần, con gái khác, con gái ở ngoài nhiều hơn ở nhà, ban đầu là những buổi học thêm, những ngày trường học hai buổi cho đến lúc con gái đi chơi nhiều. Má ít gặp con gái còn hơn những người bạn của con gái. Má tự buồn vì con gái thấy má nhà quê, không hợp mốt, con gái suốt ngày rầy má suốt ngày chỉ biết vò võ trong nhà với những cái áo bà ba gấm hay những bộ quần áo rộng thùng thình chẳng hợp mốt, còn má vẫn cứ rầy lại vì cho rằng những bồ đồ đó làm má thoải mái. Rồi má bệnh, rồi má ngất đi, khi tỉnh dậy má thấy con gái đang ngồi cạnh nước mắt lưng tròng, con gái nắm hai tay má thật chặt:
- Má ơi, má đừng bệnh nữa, nghĩ tới cảnh má bệnh, rồi chuyện xấu xảy ra con không chịu được.
Con gái khóc, má cũng khóc, nhưng má biết nước mắt má có những nụ cười trong đó. Từ đó con năng ở nhà
hơn, cứ như việc má bệnh là cú sốc lớn nhất đời con gái và con gái lúc nào cũng chăm bẵm má thật kĩ. Má cũng chiều con gái, cũng năng ra ngoài, cũng năng thay đổi, lúc má bận những bộ cánh ăn diện hơn chút con gái cười thật tươi, má chợt hiểu thay đổi đôi khi cũng là điều tốt, và điều quan trọng là ở sâu kín tận đáy lòng con gái má vẫn còn đây, bé bỏng như ngày nào.
            
Rồi con gái vào đại học, con gái đi học xa nhà. Đây là khoảng thời gian khó khăn nhất với má khi những khó khăn của con chỉ có thể trao đổi qua những cánh thư hay những cuộc điện thoại vội vàng bởi lịch học của con trở nên dày đặc và con mệt mỏi sau những buổi học dài. Một năm có khi con chỉ về một hai lần, nỗi nhớ con gái má chỉ biết gửi gắm qua những bức hình thương nhớ. Nhưng lên đại học, con gái trưởng thành sớm, biết đi làm phụ giúp việc học ít lấy tiền mẹ cha, thi thoảng còn biết gửi đồ về cho em khi thấy món ấy có điều gì thú vị hay em thích. Nhưng có một điều khiến má buồn, là những nỗi lo của con gái, con gái toàn cắn răng chịu đựng. Những tháng ngày con gái đi học xa, chưa bao giờ con gái than không có tiền đóng học hay lắng lo về một mối quan hệ nào đó, chỉ có con gái ngày càng gầy guộc đi. Tết con gái về, má hay cho con gái ăn uống tẩm bổ thật nhiều, những lúc ấy con gái mới sà vào lòng má kể hết chuyện này tới chuyện kia cứ như mấy ngày tết với con gái không thể nào là đủ. Má hiểu: "Dù có trưởng thành con gái vẫn còn bé nhỏ trong lòng mẹ”.
            
Con gái đi làm, con gái nay khác hơn nữa. Không còn lẫm chẫm tập đi rồi lúc nào cũng ngoái đầu nhìn lại xem má có còn đấy không, có còn nắm tay không, nay con đã tự bước vào đời bằng chính đôi tay của mình. Con gái có công ăn việc làm ổn định ở một công ty nước ngoài, mỗi sáng đi làm vẫn vòi mẹ nấu đồ ăn sáng rồi chuẩn bị đồ công sở thật phẳng phiu. Lại còn nhõng nhẽo hệt như con nít. Con gái lớn rồi con gái khóc nhiều hơn vì những mối tình, dù là buồn là vui con gái đều nói với mẹ, nhưng dù là cảm xúc gì con gái cũng khóc, má cứ phì cười sao con gái mít ướt dữ thế. Má dạy con gái hãy trân trọng những gì đang có và biết cân bằng mọi thứ thì mới gìn giữ hạnh phúc được. Con gái chín chắn hơn má nghĩ, má vui.
            
Rồi con gái đi lấy chồng, má hiểu lần này có lẽ là lần con gái xa má lâu nhất nhưng má lại vui vì cuối cùng con gái cũng đã tìm được bến đỗ của đời mình. Đám cưới con, cả hai đều cười, chẳng một giọt nước mắt rơi, con gái lên xe hoa còn nắm tay má thật chặt.
-Má ơi, con sẽ về thăm má.
Má vẫy tay chào con, con gái à, con gái lớn rồi, đã đến lúc con làm người phụ nữ của gia đình, má tin con gái sẽ hạnh phúc, con gái ạ.

Tác giả  : Lê Hứa Huyền Trân
Hội viên Hội VHNT Tỉnh Bình Định

READ MORE - CHUYỆN HAI MÁ CON - Lê Hứa Huyền Trân

MỘT LẦN GHÉ ĐẢO TRƯỜNG SA - Thơ Phan Minh Châu



MỘT LẦN GHÉ ĐẢO TRƯỜNG SA

Trên mỗi con tàu xé gió ra khơi
Tôi mới hiểu thế nào là Tổ Quốc
Bóng người lính ngày đêm ôm đất nước
Thương Trường Sa như chính trái tim mình
Tàu dập dình trong một sớm bình minh
Cứ xẻ sóng băng mình trên biển dử
Ngôi sao mai đồng hành trên mũ
Chúng tôi đi ….Tổ quốc chỉ đường
Họ đến đây từ mọi phía yêu thương
Vui sướng, ngọt bùi chung tình lính đảo
Bóng Tiên Nữ ngày đêm lo chống bão
Giông tố mưa sa nên tóc ngã màu
Bốn bề là khoảng trống mênh mông
Trường Sa lớn ôm Trường Sa nhỏ
Đảo An Bang hay là thành phố trẻ
Đêm xập xình lễ hội hát ca
Đảo chập chờn như một đứa con xa
Theo cột mốc cứ mỗi ngày rung chuyễn.
Hởi Đá Tây,Phan Vinh,Tiên Nữ?
Có chạnh lòng khi bão xé An Bang
Những năm dài biễn đảo nhuộm hoàng hôn
Bởi bão dữ xé phần thân Tổ quốc
Chúng tôi đi mang theo từng nhúm đất
Từng giọt phù sa của mẹ đến cho người
Thoang thoáng giọng cười ngạo nghễ đầy vơi
Của người lính ngày đêm canhTổ Quốc
Câu khẩu hiệu (CÒN NGƯỜI LÀ CÒN ĐẤT)
Mong một ngày xương thịt gửi quê hương
Tạm biệt An Bang
Qua Quế Đường theo cột mốc yêu thương
Đảo xanh ngắt một màu xanh của lính
Bóng Hãi Âu đêm ngày chao cánh
Gieo tình yêu thánh thiện xuống cho đời
Chúng tôi về đảo có mồ côi?
Khi biễn đảo một ngày xa Tổ Quốc?
Anh nằm xuống ngôi sao hôm vừa mất
Ngôi sao mai lại chuẩn bị lên đường.


TỔ QUỐC CẦN ĐÃ CÓ CHÚNG CON

Có phải giờ này con đang ngồi trong lớp
Đang tập đánh vần hai chữ VIỆT NAM
Tổ Quốc mình một dải đất yêu thương
Nằm thao thức bao đêm chờ bão dữ
Cơn Bão nghìn năm đã đi vào trang sử
Trang sử hào hùng còn sáng Bạch Đằng Giang
Hưng Đạo Vương đã chặn bão nghìn năm
Bằng cọc nhọn từ rừng tre nước Việt
Và hai bà Trưng đã giữ tròn khí tiết
Để Hát Giang mãi mãi sáng lời thề
Trăm trứng Rồng bay lượn khắp trời quê
Cha ông ta ngày xưa
Vẫn hiện về trong con qua những bài lịch sử
Và biển, đảo của ta.
Đã ghi rỏ trong những bài Địa Lý
Bốn nghìn năm Ấn Chỉ vẫn chưa phai .
Dân tộc chúng ta
Một dân tộc thủy chung và hồn hậu
Lấy nghĩa nhân làm thước để răn mình
Bốn bể năm châu thắm tình bè bạn
Trọng lời thề sau trước vẫn đinh ninh.
Nhưng bão tố nghìn năm xưa đã bắt đầu trỗi dậy
Sóng dập dồn trên biển đảo quê hương
Hoàng Sa,Trường Sa cồn đất nhỏ yêu thương
Đang thao thức từng đêm dài chống bão.
Các anh con
Rời sắc áo học trò để thành người lính đảo
Ngày canh trời đêm chốt biển xa xôi
Nghe sóng gầm nhớ mẹ thuở ru nôi
Mai khôn lớn con làm nên Phù Đổng.
Đất nước ta
Bốn nghìn năm biển dài và đất rộng.
Mỗi bờ tre mỗi thành quách kiêu hùng
Bão phương Bắc có làm nên biển sóng
Vẫn sáng ngời hai tiếng Việt Nam


Phan Minh Châu


Nha Trang, Khánh Hoà.
READ MORE - MỘT LẦN GHÉ ĐẢO TRƯỜNG SA - Thơ Phan Minh Châu

Ký ức Trường Sơn: NHỮNG NĂM THÁNG QUÂN NGŨ TRÊN ĐẤT BẠN LÀO - Nguyễn Đại Duẫn

Bản Đông


Ký ức Trường Sơn:
NHỮNG NĂM THÁNG QUÂN NGŨ TRÊN ĐẤT BẠN LÀO
Nguyễn Đại Duẫn

Chia tay đồng nghiệp và học sinh; tạm biệt mái trường thân yêu, vai khoác ba lô lên đường theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc. Tôi nhập ngũ Quân đội. Ngày 27-1-1982.

Chiếc xe đò “cũ mèm”, nổ như máy cày đưa chúng tôi vượt qua chặng đường daì. Con đường lô nhô ổ gà, ổ voi, đất đá lởm chởm vòng vèo qua sườn núi. Gió rừng xạc xào tràn vào cửa xe mang theo hơi nóng của bụi đường phả vào mặt khô khốc. Mồ hôi nhớp nháp. Những cây săng lẻ, những rừng le, rừng nứa…đần dần xuất hiện phía trước. Người chỉ huy ngồi cạnh “taì xế” cho biết đã đến đất bạn Lào.

Chúng tôi được đưa về đơn vị huấn luyện tại bản Cha Ki. Cái nóng của mùa khô ở đây thật khó chịu. Con suối cạn cất tiếng róc rách làm tăng thêm nỗi nhớ nhà. Tiếng chim bìm bịp, tiếng tắc kè thảng thốt trong đêm càng nảo nề, thanh vắng. Cầu Cha Ki vừa mới đỗ xong bê tông, đang còn nham nhở. Ván cốp pha, cọc chống ngỗn ngang cạnh những chiếc xe tăng, xe bọc thép nòng gãy dập xuống đất gợi lại cảnh ác liệt chiến trường xưa. Những ngày đầu mới biên chế đơn vị, thật bỡ ngỡ, thiếu thốn trăm bề… Chúng tôi vào rừng chặt gỗ, nứa, cắt tranh…để làm doanh trại. Vất vả chưa quen lao động chân tay.

Mỗi buổi nghỉ , chúng tôi sảng khoái ngụp lặn trên dòng Sê Pôn nước trong xanh, tận hưởng cái mát mẻ của dòng nước lững lờ. Rồi chuyền nhau những lá thư nhà như truyền cho chúng tôi thêm sức mạnh.
Tham gia huấn luyện hai tháng thì bắn đạn thật. Đồng chí chỉ huy cho biết, nếu bắn ba vòng mười thì đơn vị cho phép mười ngày về thăm nhà. Tôi được hai chín. Vậy là không có hy vọng. Tôi cứ trách mình vì không tham gia luyện tập tốt. Những bài tập trong khóa huấn luyện năm nào ở trường tôi chẳng được học. Bài bắn súng tôi thuộc lòng. Tôi còn dạy cho đồng đội, nào là “áp má, kề vai, nín thở, bóp cò…”.

Tôi được điều về C1- D37- E509- F384, thuộc đơn vị cầu. Đơn vị chúng tôi đóng cách Bản Đông khoảng chừng cây số. Gọi là Bản Đông nhưng dân cư ở đây thưa thớt. So với các bản thì Bản Đông sầm uất hơn vì nơi này có chợ, cửa hàng tạp hóa, có quán café nên ngày đêm rộn ràng , nhộn nhịp. Các cô gái dân bản quanh vùng váy đỏ, váy hồng thổ cẩm rực rỡ đi mua sắm làm cho chúng tôi thấy đỡ nhớ nhà hơn.

Rồi một ngày dân bản đốt rẫy. Lửa bốc ngùn ngụt, lửa tràn qua mõm đồi, lửa thốc vào doanh trại. Cả đơn vị đều đi công trường. Tiếng báo động inh ỏi, tiếng kẽng dóng dã vang lên, lửa bò lên mái nhà…hừng hực hung dữ. Nhà bốc cháy. Đơn vị hối hả tranh nhau với lửa. Người xách ba lô, người xách súng… tiếng hò hét, tiếng dội nước huyên náo cả một góc rừng. Gió thông thốc làm cho “thần lửa” thêm sức mạnh. Cả dãy nhà trong chốc lát chỉ còn lại đống tro tàn. Tôi ướt sũng vì “tham chiến” xông xáo, đồ dùng cá nhân không kịp “tranh với lửa” nên chẳng sót lại thứ gì. Cái chăn thấm nước quẳng lên mái nhà để “đánh thần lửa” cũng chẳng làm nên chiến tích.

Tôi sốt li bì một tuần. Vì yếu, vì đẫm nước, vì bị muỗi đốt. Đồng đội tất bật  làm lại doanh trại. Tiểu đội trưởng bảo tôi gặp “may” đỡ phải lăn lộn với cái nắng, đói…Không thể chịu được, chưa hết sốt, tôi cũng cố “xung phong” đi bứt tranh. Mấy ngày đầu không sao. Đến ngày thứ ba tôi lên cơn sốt không kịp gánh tranh về. Người hầm hập, run bần bật chẳng còn ai để “cứu trợ” vì đồng đội đã về hết. Tôi gồng mình cho cơn sốt qua đi. Tôi khát, mệt, bò đến ruộng dưa của đồng bào để may ra còn gặp ai đó…Vắng vẻ. Tôi vừa đưa tay chuẩn bị hái quả dưa thì có tiếng người: “Ê! Bộ đội xấu lắm, lấy của đồng bào mình mà không xin ”. Tôi ngoảnh lại: “Xăm - bai - đi - phò”!( Chào bố), con bị sốt nên khát quá, chẳng thấy có ai mà xin cả. Hai người đàn ông lực lưỡng, một già một trẻ đen nhẽm đi về phía tôi. Tay sờ trán, miệng kêu lên: “Bộ đội pên - khậy (sốt rét) thật rồi!”. Người trẻ gánh tranh, người già dắt tôi  đi theo sự chỉ dẫn. Về đến đơn vị, mọi người chạy ra đón tôi mừng rỡ. Và không quên Khop chay - phò(Cảm ơn bố). Họ chuẩn bị đi tìm.

Sau đợt hỏa hoạn, mọi nề nếp sinh hoạt cũng trở lại guồng máy. “Ông” Đại đội trưởng tôi nghiêm lắm. Anh em thường gán là “ông hắc xì dầu”. Ông là người Hà Nội gốc, thư sinh nhưng rắn rỏi. Tôi thấy ở ông toát lên tính kế hoạch công việc của người từng trải. Công việc chính của đại đội chúng tôi là làm cầu. Dựa vào kinh nghiệm, ông phân công công việc rạch ròi. Lính dân Nam Hà bố trí cưa gỗ làm cốp pha, dân Thanh Hóa lắp dàn giáo, Quảng Bình, Quảng Trị đóng cốp pha, người Hải Phòng thì làm sắt trụ…Nói chung ông bố trí công việc hợp lý, hợp lý đến mức anh em lính không thể cãi lại được, không có thể ngồi chơi được. Tháng nào đại đội cũng hoàn thành nhiệm vụ và vượt kế hoạch. Hôm nào giao ban về bếp có thêm thịt hộp, cá khô…là anh em biết đại đội được khen.

Rồi một ngày, Tiểu đoàn giải tán, đại đội trực thuộc Trung đoàn. Tôi được điều động về Ban Tham mưu, phụ trách nuôi quân kiêm quản lý bếp ăn của Trung đoàn bộ. Mọi người mừng cho tôi vì sức tôi không thể chống chọi nỗi với bê tông cốt thép. Bởi tôi sinh ra đã ẻo lả, mảnh mai của anh thư sinh gõ đầu trẻ.

Bếp ăn của Trung đoàn bộ chỉ có một “anh”, còn lại là “chị” nuôi. Họ bắt tôi gọi như vậy mặc dầu tuổi xấp xỉ hoặc tôi lớn hơn, nhưng vì tôi là lính “mới tò te”. Không sao. Được làm bạn bếp núc với mấy “ả” là tôi vui lắm rồi. Những người lính khác giới dù sao họ vẫn có những tình cảm  khác biệt, phụ nữ  họ quan tâm chúng tôi. Tôi cứ nhớ mãi cái hôm  đi nhận nhu yếu phẩm cho đơn vị về, một “chị” chạy ra hỏi: “Kin khậu lẹo bò”.  Nghe đến đây tôi nỗi đóa lên…Nhưng cô gải thích là hỏi tôi đã ăn cơm chưa? Tôi thành thật xin lỗi vì vốn tiếng Lào của mình ít ỏi.

Tôi được ưu ái hơn một số bạn cùng đi. Tôi say mê công việc. Tăng gia tích cực, chịu khó chăn nuôi, hái măng mau lẹ…Nói chung  ngoài cân gạo, cấp cá, thịt hộp… cho bếp, cấp nhu yếu phẩm cho đơn vị thì việc gì tôi cũng làm tuốt.

Mùa mưa đã đến. Mưa đến nẫu ruột. Những cơn mưa xối xả, không ngừng. Con suối đầu doanh trại như đang gào xé, quặn lòng những bụi cây đất đá xung quanh bờ. Không biết làm gì, chỉ biết đánh tu-lơ-khơ quẹt nhọ nồi. Tội nghiệp cho mấy em mọc “râu” đầy cằm như Trương Phi. Trời tạnh thì sân bóng chuyền, bóng đá rộn ràng lên.

Mấy búp măng le, măng nứa đội đất ngoi lên. Mùa hái măng. Hôm chủ nhật Tham mưu trưởng cử các Ban xuống phục vụ bếp để nuôi quân đi lấy măng. Tôi dẫn 5 người đi. Hai nam, bốn nữ. Lấy măng phải sang bên kia sông Sê Pôn thì măng mới ngon, mới nhiều. Đến bến, tôi vào nhà dân để mượn thuyền sang sông. Không thấy ai. Tôi nói to: “Phò ơi! dù hươn bò ?”(bố ơi! có nhà không?). Tôi nghĩ, thôi mình cứ “mượn liều”. Thế là sáu anh em lên thuyền. Thuyền độc mộc nhỏ chòng chành không đủ sức chứa. Tôi cũng biết chèo thuyền, nhưng thuyền độc mộc thì chưa lần nào. Dòng sông dạo này mưa nhiều nên chẳng còn “lững lờ” nữa. Đứng trước mấy em tôi cũng muốn thể hiện bản lĩnh đàn ông. “Không sao đâu”! Tôi động viên mọi người và “lấy hết sức bình sinh”. Con sóng cuộn lên làm ướt quần một cô. Giật mình đứng dậy. Chiếc thuyền lật, mọi người chới với. Mấy đứa trẻ khoảng 15, 16 ngồi trên đọt cây gần đó cười rộ lên. Bỗng có tiếng một ông lão quát: “Nặn!xúc-ca-xởn-tha hán”(Này! Cấp cứu bộ đội). Mấy đứa trẻ nhảy tùm trên cây xuống sông, mấy nam thanh niên trong bản hớt hải bơi ra dìu chúng tôi vào bờ. Mọi người như chuột lột, hai cô bị sặc nước mặt xanh tái. Nghỉ một lúc. Hoàn hồn. Chúng tôi “Khop chay, khop chay” (cảm ơn) rồi dắt nhau về. Đợt đó tôi bị kiểm điểm rút kinh nghiệm toàn trung đoàn. May không sao, nếu có chuyện gì xảy ra phải ân hận suốt đời.

Vậy mà đã năm thứ hai tôi ở đất bạn Lào. Người dân Lào cũng như người Việt, cần cù chịu khó làm ăn. Thời đó dân Lào cũng vất vã lắm, cái ăn, cái mặc luôn thiếu. Người Lào chịu khổ, chịu mưa nắng giỏi, ít đau. Sau lưng chiếc gùi lúc nào cũng nặng trĩu những củi, ngô… Đặc biệt nơi chúng tôi đóng quân, người Lào nói và hiểu biết tiếng Việt tương đối thành thạo. Họ giao tiếp với bộ đội không cần phải phiên dịch. Bộ đội cũng cố bập bẹ tiếng Lào, có khi vừa nói tiếng Lào xen tiếng Việt nghe ngồ ngộ. Bộ đội và đồng bào sống thân thiết, tình cảm. Thĩnh thoảng chúng tôi cũng đi vào bản uống rượu, tán gẫu với thanh niên bản, mua sắm, đổi chác…

Thế rồi tết Lào cũng đến. Hằng năm vào 16 - 4 dương lịch là người Lào bắt đầu ăn tết. Những ngày đó đơn vị cho chúng tôi được về bản tham gia vui tết cùng đồng bào. Tết Lào có nhiều tập tục như: té nước, phóng sinh, buộc chỉ cổ tay…

Tôi nhớ mãi một cái Tết. Tôi là thanh niên tích cực, có nhiều thành tích, biết hát, ngâm thơ nên nằm trong diện “Đại biểu” đi dự tết cùng  Trung đoàn trưởng và  thủ trưởng các Ban. Tôi chọn bộ quần áo mới nhất, đẹp nhất để mặc. Vừa bước xuống xe, các cô gái Lào (có chuẩn bị trước) chạy ra dùng nước té vào xe, vào các Thủ trưởng. Người Lào tin rằng nước sẽ giúp gột rửa điều xấu xa, bệnh tật và cầu chúc năm mới sống lâu, sạch sẽ và mạnh khỏe. Ai bị ướt nhiều là hạnh phúc nhiều. Nước được dùng từ hỗn hợp thơm gồm: nước nghệ, bồ kết, hoa, dầu thơm…nên ai bị té nước cũng thấy dễ chịu. Tôi mang quà của đơn vị nên đi sau. Nước hết, các cô gái Lào nhanh nhảu chạy đi lấy. Họ té vào người tôi. Trời! Thứ nước gì mà đùng đục, hôi hôi, tanh tao… nước dùng để té đã hết, mấy cô “sáng ý” đưa nước vo gạo té vào tôi. Người tôi ướt sũng, hôi hám, thật khó chịu. May sao anh thanh niên bản chạy về nhà lấy cho tôi bộ quần áo của họ dùng tạm. Tôi mặc bộ đồ “thập cẩm” thấy ngượng ngùng.

Lễ buộc chỉ cổ tay truyền thống chứng tỏ sự lưu luyến, mến khách được tiến hành, sau đó uống rượu cần, điểm tâm. Trên bàn chẳng có bát đũa gì cả. Tôi hỏi một anh trong đoàn về việc này. Anh bảo: “Ở đây chỉ có ăn bốc thôi!”. Tôi rùng mình, uống một hơi rượu để lấy can đảm. Mọi người đều dùng tay bốc để ăn cả nên tôi cũng quen dần. Tiếp đến là tâm sự giữa Trưởng bản với Bộ đội và kết nghĩa truyền thống.  Sau tiệc rượu cần là Lăm-vông (điệu múa Lào). Đống củi to tướng trước sân nhà Rông được trưởng bản châm lửa đốt. Ngọn lửa hồng rừng rực bốc cháy. Bản  nhạc Lăm-tởi cất lên, tất cả đều hát theo và múa “...Đôi ta biết nhau đây, lòng em theo tiếng khèn, ca lên bài hát Lăm-tơi...”. (các bạn Lào họ cũng biết hát bài này) . Lăm-tỡi là loại lăm phổ biến nhất của Lào. Nhịp điệu của lăm tỡi sôi nổi, dồn dập. Loại lăm này được biểu diễn bởi hai người, một trai và một gái hoặc tập thể theo vòng tròn vừa ca vừa múa theo điệu khèn, nhịp trống . Điệu múa này gọi là phõn kiểu, tức phòn, rất nhịp nhàng, tình tứ.  Lăm-vông với các bài Lăm-tơi vang lên da diết, dìu dặt như muốn giữ chân chúng tôi lại cũng như bài hát Việt “người ơi, người ở đừng về...”. Đến lúc say sưa tôi nắm lấy tay cô gái Lào một cách tình tứ và nhảy. Nhưng cô gái dừng lại nhìn tôi có vẻ giận dỗi rồi bỏ đi vào trong nhà Rông. Tôi chột dạ, đến hỏi trưởng bản. Trưởng bản cho biết là phong tục ở đây không được nắm tay con gái nếu không phải là bạn tình. “Vào xin lỗi nó đi, nếu không nó bắt đền trâu cho nó đấy!”. Tôi nhẹ nhàng như con gái về nhà chồng bên cô gái“Khó thột, khó thột” (xin lỗi). Cô gái biết tôi có lỗi nên tha thứ và tiếp tục nhảy múa. Hú vía! Đền trâu thì chắc sẽ bị trung đoàn kỷ luật thôi!

Năm tháng trôi dần, công việc nối tiếp công việc.
Và ngày ra quân cũng đến, ngày 20-6-1984. Tôi mừng lắm. Mừng vì mình đã hoàn thành nghĩa vụ cao cả của Tổ quốc giao cho. Mừng vì sắp được về bên bố mẹ, gia đình, trở lại với nghiệp dạy học. Vui vì cầm tấm Bằng khen của Bộ quốc phòng để về khoe với bố, khỏi hổ thẹn với ông ( Bố tôi cũng là bộ đội. Ngày tôi lên đường ông đưa cho tôi xem một hộp đựng huân huy chương và chẳng nói gì. Tôi hiểu ý ông). Nhưng cũng thấy buồn, những cảm xúc xa đơn vị, xa bạn bè cứ trào dâng… Ngày ra quân mọi người tiễn tôi trong tình yêu thương đồng đội. Tôi cảm ơn rất nhiều về những tình cảm bao ngày gắn bó, vui buồn bên nhau…

Kỷ niệm những ngày quân ngũ trên đất bạn Lào cứ đi theo tôi suốt năm tháng dạy học. Vậy mà đã 35 năm. Ba mươi lăm năm trôi qua ký ức Trường Sơn đã đi vào từng trang giáo án, từng lời giảng, gieo vào lòng học sinh những tình yêu Đất nước thiết tha. Chắp cánh cho tôi đi vào lời thơ, lời văn trong từng trang báo.

Sau 20 năm, năm 2004 tôi có quay lại Bản Đông trong một dịp tham quan. Bản Đông bây giờ đã đổi thay nhiều lắm. Nhà cao, người đông đúc tấp nập. Có nhà hàng, có quán xá… bán đủ các mặt hàng. Những người dân bạn Lào giờ đã có cuộc sống đầy đủ hơn. Trên gùi của các cô gái là những mảnh vải hoa rực rỡ, những bộ quần áo đắt tiền… chứ không phải là những gùi cũi, gùi bắp như trước. Gặp lại những người bạn Lào niềm nở, thân thương như gặp lại người nhà của mình. Tình cảm hai nước Việt - Lào như ngày càng sâu đậm bền chặt.

Nguyễn Đại Duẫn
CTV Trang thông tin và Bản tin Trường Sơn.
Tiều khu 5, thị trấn Quán Hàu, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình.
DĐ: 0977194533.

READ MORE - Ký ức Trường Sơn: NHỮNG NĂM THÁNG QUÂN NGŨ TRÊN ĐẤT BẠN LÀO - Nguyễn Đại Duẫn

SẮC BIẾC MÀ CHI / BỞI TẠI MEN TRĂNG - Thơ Ngưng Thu


Tác giả Ngưng Thư

SẮC BIẾC MÀ CHI

Mê mãi cuộc đi tìm sắc biếc
nợ gió trùng vây mây bốn phương  
một thoáng hương bay chừng muốn ngỏ
rêu phong níu lữ khách qua đường.

Gác xưa dấu tích chừng như vẫn...
nguyệt cài tóc rực lên chiêm bao
khát vành môi thơm đêm riết róng
mùa đi hồ hởi, quên ngoái chào. 

Nhấc tiếng phong linh đêm gợi gió
nhả vầng mây rơi rơi thinh không
câu thơ phù chú quên lời khấn
chạnh gót phong sương, chạm đáy lòng  

Lang thang khắp chốn xa cùng tận
đi miết muôn phương chợt muốn về
thèm hong câu hát đêm ru ướt
sắc biếc mà chi? thôi mãi mê...

Ngưng Thu


BỞI TẠI MEN TRĂNG

Đêm nghe tình lên tiếng, hơi thở nhẹ khói bay
Trên trời men trăng đổ, ngấm vào hồn say say.

Môi em mềm cánh mọng, thơm ta ngất một đời
Tóc em bồng mây hạ, đưa ta vào tinh khôi.

Đêm nghe quỳnh hoa nở, trăng nín đợi hương tan
Giọt long lanh hồ hởi, gợi sương lay trên ngàn.

Đêm chờ em chờ em, trăng rót đầy ly gió
Lời yêu ta muốn ngỏ, muôn ngàn lần đêm nay.

Đêm men tình lên tiếng, tay lần tìm ngón tay
đêm chợt hồn say khướt, môi tìm môi lưu đày.

NGƯNG THU


READ MORE - SẮC BIẾC MÀ CHI / BỞI TẠI MEN TRĂNG - Thơ Ngưng Thu