Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Friday, June 23, 2017

VỌNG THÁI SƠN - Hạnh Phương


Tác giả Hạnh Phương


VỌNG THÁI SƠN
Hạnh Phương


Thuở ấy, ở quê nhà, tôi nghe ông bác thường gọi cha bằng eng (anh), thằng Lợi bạn học lớp năm trường làng với tôi (lớp bốn bây giờ), gọi cha bằng chú, con các chú tôi gọi bằng ba. Chập chững lớn lên, tôi gọi theo các anh chị, gọi cha bằng cậu và cũng thật là lạ, khi các ông cha sắp có cháu nội hoặc cháu ngoại, thì lập tức được đôn lên một chức. Con họ gọi họ bằng ông, trong họ ngoài làng cũng từ đó, lấy tên người con đầu, con trưởng của họ mà gọi ông nọ, ông kia, v.v… và từ đó cái tên thường gọi ông nọ ông kia trở thành tên húy kị, chỉ ẩn mật  tồn tại trong gia phổ. Tính theo phổ hệ gia tộc tôi thuộc đời thứ mười lăm trong họ, ngược lên đời thứ mười bốn, tôi còn được nghe các chú, các bác gọi cha bằng bọ. Theo địa lý vùng miền, thì người miền Bắc gọi cha bằng bố, người miền Nam ảnh hưởng ngữ âm người Việt gốc Hoa, gọi cha bằng tía.

Thật kỳ lạ, với thái độ thật cẩn trọng, cố lắng mà nghe, tôi chưa bao giờ được nghe thấy bất cứ ai gọi cha mình bằng tiếng gọi thân thương là cha cả. Tiếng cha thiêng liêng, tiếng gọi thuần Việt hình như đã vắng bóng, đã lẫn khuất đâu đó trong tiếng nói đời thường.

Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra,

Công cha nghĩa mẹ cao vời…,

Con không cha như nhà không nóc.
(Ca dao, Tục ngữ)

Rồi một hôm nếu về cha hỏi,
Mẹ ở đâu con biết nói sao,
Con lặng chỉ cây đào trước ngõ,
Bên cây tùng rồi đứng lặng yên…
(Thái Cang)

Tôi thoáng bâng khuâng nghĩ tưởng, không biết do duyên cớ nào, tại sao tiếng gọi cha thân thương trong ngôn ngữ đời thường của chúng ta chỉ còn tồn tại trong ca dao tục ngữ, trong văn học thành văn, nơi những câu văn, câu thơ mượt mà, bóng bẩy, nơi những dòng chữ biểu cảm lòng biết ơn, nhớ ơn, hiếu đạo, hiếu nghĩa. Xót xa thay, hình như nó đang sắp vắng hẳn trên khẩu hình biểu hiện tiếng nói đời thường của người Việt Nam!!! Tôi thèm được nghe những tiếng nói tỉ tê, nũng nịu: Cha ơi! Giải giúp cho con bài toán khó nầy; Cha ới! chiều nay, cha có đi đâu không? Hoặc có khi than thở với cha: Cha ơi! Lăn xả vào đời con mới thấy cuộc sống đúng là vất vả quá cha nhỉ!

Thú thực, tôi đang bâng khuâng tiếc nuối… Nhưng rồi tôi tự an ủi mình: Có lẽ, do âm hưởng tiếng gọi cha giữa đời thường trầm lắng xuống, ẩn khuất dần đi nên tính cách tiếng gọi ấy trở thành mật ngữ, ẩn ngữ thiêng liêng trong tâm thức người Việt mình đó chăng? Nó đang dần trở thành tiếng Việt cổ, để mai kia các nhà ngữ học nghiên cứu, mơ màng nghĩ suy về dòng chảy văn hóa chúng ta đang sống bây giờ để họ cũng bâng khuâng nuối tiếc…

Tu đâu cho bằng tu nhà,
Thờ cha kính mẹ mới là chân tu.

 Ân cha nặng lắm ai ơi,

Công cha đức mẹ cao dày,
Cưu mang trứng nước những ngày ngây thơ.

Trong kho tàng văn chương Việt Nam từ ngàn xưa đến nay, đã có nhiều nhà văn, nhà thơ nổi tiếng trên văn đàn viết văn thơ, ca dao, ca tụng về người mẹ. Những hình ảnh cao quý, hiền hòa của người mẹ được diễn tả như vầng trăng tròn huyền ảo, ngọt ngào như nguồn suối trong lành… chứa đầy chất lượng yêu thương để nuôi con mau lớn, trí tuệ thông minh. Có nhiều địa phương dân gian đã khéo vận dụng những hình ảnh thực tế, chân thực để so sánh người mẹ như chuối ba hương, xôi nếp một. Có những bài nhạc ca tụng người mẹ dịu hiền, với tình yêu thương con bao la như biển Thái Bình dạt dào...

Còn những hình ảnh đẹp đẽ của người cha được các văn nhân, thi sĩ đã diễn tả như thế nào? Nhiều từ ngữ, câu văn, bài thơ, ca dao trong dân gian diễn tả về người cha cũng tràn đầy lai láng về tình yêu thương sâu sắc và phong phú đối với các con trong gia đình thật ngọt ngào, trong sáng như vầng thái dương… nhưng luôn ở một cấp độ khác.

Vâng, đúng như vậy, người cha là trụ cột vững chắc trong gia đình, cũng chịu thương, chịu khó nuôi con khôn lớn và thành đạt. Ngoài ra, người cha còn tỏa ánh sáng rực rỡ, chăm sóc, lo cho mái ấm gia đình được hạnh phúc. Trước khi ca ngợi công ơn của mẹ, ca dao Việt Nam cũng ca ngợi công ơn cha cao vời như núi Thái Sơn cao chất ngất giữa trời xanh, mây trắng. Tuy người cha cũng có trái tim yêu thương tuyệt vời như mẹ nhưng bao giờ cũng thâm trầm, sâu lắng.

Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài mới trở thành người con ngoan trong gia đình, học trò giỏi nơi nhà trường. Đối với đất nước là người công dân tốt để xây dựng tổ quốc được giàu mạnh, sánh vai với cường quốc trên thế giới. Vì thế, bổn phận làm con phải hết lòng hiếu thảo, yêu thương kính trọng công ơn cao cả của cha, của mẹ: Một lòng thờ mẹ kính cha,cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.

Các câu ca dao trên tuy ngắn gọn mà diễn tả được nhiều ý nghĩa sâu sắc về tình thương cao cả của người cha, ngang bằng với tình thương của mẹ đối với con cái trong gia đình. Câu ca dao đã so sánh công sinh thành dưỡng dục của cha lẫn mẹ đều có công lao như nhau, tất cả đều hy sinh cho con để trở thành người hữu ích cho xã hội: Công cha sinh thành dưỡng dục, Nghĩa mẹ chín tháng cưu mang.

Trong gia đình, cha là thành trì vững chắc, âm thầm che chắn phong ba bão táp bất thường ập đến. Cha luôn là người đầu tiên sẵn sàng, quả quyết hi sinh cả tính mạng mình để bảo vệ hạnh phúc cho mái ấm gia đình được yên vui. Con không cha như nhà không nóc, con không cha như nòng nọc đứt đuôi. Còn cha gót đỏ như son… Cha là người mở đường khai phóng cho con dấn thân, thành công sự nghiệp.

Rất nhiều câu ca dao, tục ngữ đã thể hiện vai trò và ý nghĩa rất quan trọng của người cha trong gia đình, là người quyết định tương lai và sự nghiệp nuôi dạy con trở thành người tài giỏi, có sự nghiệp vẻ vang. Trên bình diện học đường, xã hội, cha cùng với công đức giảng dạy của người thầy thật cao cả, thật rộng lớn.

Đa số trong gia đình, người con vẫn cảm thấy gần gũi người mẹ hơn cha, vì rằng người mẹ thường nâng niu, chiều chuộng, chăm sóc và hay lắng nghe lời tâm sự của các con. Đồng thời mẹ thường động viên, an ủi con khi gặp rắc rối, ưu tư đã vấp phải ở trường học, ở ngoài xã hội. Còn người cha thì vốn trầm lặng, nghiêm khắc ít nói, luôn luôn suy tư nhiều công việc trong gia đình. Cho nên người con ít gần gũi với người cha, ít khi bày tỏ ưu tư hay khó khăn của cuộc đời cho cha nghe, để người cha góp ý giúp con vượt qua tất cả khó khăn trong cuộc sống hàng ngày.

Hình tượng người cha qua phong dao, tục ngữ, qua lăng kính tri thức văn học bác học  luôn là hình ành lý tưởng, mẫu mực, mô phạm. Ngay cả khi cha còn tồn tại giữa đời thường thì hình ảnh cùa cha cũng đã là hình ành để tôn thờ, ngưỡng vọng.  Nghe đến núi Thái Sơn, dù chưa biết thực tế nó ở nơi đâu, cương vực địa lý, quốc gia nào, nhưng trong tâm thức đứa trẻ thơ ngây, nó tưởng tượng thấy đó là một ngọn núi cao vời vợi, cao ngút tận trời xanh…

Ngay giữa cuộc sống đời thường, mẹ bao giờ cũng thân thương gần gũi với con, ngược lại cha bao giờ cũng nghiêm khắc, đạo mạo; người cha như một ông thầy mô phạm cho con cái. Tôi vẫn thường nghe nhiều người, nhất là phái nữ nói về hình ảnh cha mình, hào hoa phong nhã ở ngoài xã hội, nhưng bước về đến ngõ nhà, con cái nghe tiếng tằng hắng của cha là đã khép nép sợ hãi. Nhà tôi thường kể cho tôi nghe rằng, ông nhạc tôi làm sếp ga ở Phò Trạch, Thừa Thiên-Huế, thỉnh thoảng mới về thăm nhà ở Quảng Ngãi, bất thình lình nghe ông về là anh Hai đang bắt cá ngoài ao ngoài hồ, hay đang leo cây bắt chim là lo vất bỏ hết, rửa ráy tay chân sạch sẽ, chạy vụt về nhà, lẻn cửa sau vào vờ ngồi ở bàn học. Oai nghi của ông cha là như thế đấy.

Cha tôi vắng bóng giữa cuộc đời quá sớm, ông để lại cho chúng tôi duy nhất một tấm di ảnh vào khoảng độ tuổi chưa đầy bốn mươi. Thời buổi chiến tranh tang thương đổ nát, nhà tôi, bom Mỹ dội tan hoang, may sao trên đường chạy loạn tôi còn kịp mang theo tấm di ảnh duy nhất ấy. Tôi vẫn thường nghe mẹ, nghe các chú thím, các o kể lại, cha tôi là người nghiêm khắc, mẫu mực… Các o, các thím ở nhà dưới đang làm việc, hứng lên cười cợt bông lơn vui đùa tí chút, ở đầu nhà trên cha tôi nghe thấy, tằng hắng một tiếng là ở nhà dưới, mọi người im phăng phắc.

Tôi âm thầm mang triu trĩu một nỗi đau, là trọn đời mình chưa hề được tiếp xúc với cha, chưa bao giờ biết gì về cách thế ông ứng xử trước cuộc sống. Vì thế, tôi luôn như một hành nhân thui thủi giữa đời thường đi tìm một ảnh tượng cao vời mà biết chắc rằng mình không bao giờ trông thấy được. Và từ đó thao thức lý giải hình ảnh những người cha của những người thân mình được tiếp xúc.

Kìa là một người cha kham nhẫn; ông có tới chín người con, vào giai đoạn sau 75, cuộc sống bình nhật gia đình hoàn toàn bị đảo lộn, một mình ông trăm phương ngàn kế vật vã cuộc sinh nhai, mua bán ve chai, đồ cổ, rồi viết báo, in sách, v.v… ít khi tôi thấy ông tỏ ra mệt mỏi, hay càu nhàu con cái, ông luôn có nụ cười dí dỏm, tủm tỉm trên môi. Tôi quý mến ông, nên hay mường tượng tự hỏi, cha tôi thường có những nụ cười dí dỏm như vậy không?

Gia đình tôi truyền thống thờ Phật, vừa độ tuồi học hiểu được đôi điều giáo lý nhà Phật, mẹ vâng lời ông bà nội dẫn tôi lên chùa, xin thầy cho quy y. Từ đó, cứ mỗi đầu tháng, giữa tháng tôi theo mẹ lên chùa lễ bái, tụng kinh. Khuôn mặt thầy hiện rõ nét thuần từ, nhân ái. Tôi thấy hình như thầy có biệt nhãn với tôi, trong ánh mắt thơ ngây, tôi thấy, thầy có vẻ thương tôi hơn những đứa trẻ cùng trang lứa; Khi thì trái chuối, lúc trái cam, có khi là cái bánh, thầy thường cho tôi quà. Dần dần tôi cảm thấy thầy gần gũi như một người cha. Thầy thường giảng giải cho tôi những bài học giáo lý căn bản, khuyên tôi vào sinh hoạt với Gia Đình Phật Tử, Thầy cũng thường nhắc nhủ tôi chăm chỉ học tập bài vở ở nhà trường. Được thầy thương yêu che chở, tôi dần vơi bớt tự ti mặc cảm mồ côi cha, và cũng dần vơi bớt nỗi buồn tủi trước những định kiến bất công, một chiều của tư tưởng dân gian như: Con không cha như nhà không nóc.

Trước kia, nghĩ về cha, tôi thường mơ tưởng tới đỉnh núi Thái Sơn vời vợi. Đỉnh núi cao ngất ấy tôi không bao giờ vươn tới được, bây giờ tôi đã lớn khôn hơn tí chút, lại được thầy bổn sư nâng đỡ tinh thần, được thầy dạy cho điều hơn lẽ thiệt, tôi thấy mái chùa như mái ấm gia đình. Vì vậy, tôi cảm thấy mình vững vàng hơn trong mỗi bước chân vào đời.

Hạnh Phương


READ MORE - VỌNG THÁI SƠN - Hạnh Phương

THƠ VÀ THƠ... - Chùm thơ Phan Nam

Tác giả Phan Nam

THƠ VÀ THƠ...

tôi cầm tờ giấy
trắng tinh
tôi cầm ngọn bút
tròn xoe
tôi cầm một tôi
con chữ

bắt đầu thành hình
trong cõi giới thi ca
mỗi dòng thơ - một hành trình
mỗi đời người - một số phận
mỗi tác phẩm - một niềm tin

tôi im lặng
cuốn sách cũng lặng im
tôi muốn nói với tôi điều gì
tôi suy nghĩ để viết điều chi
không ai biết
chỉ nỗi niềm xúc động trào dâng
nhưng sự thật
thì không phải như vầy.

Tiên Phước, khuya 15.06.2017

GIỮA NHỮNG THANH ÂM

trong căn phòng
vô giác vô tri
trong căn phòng
lãng mạn si mê

nhà thơ trẻ
ngồi lặng im và viết
bỏ mặc ngoài kia ồn ào náo nhiệt
nhà thơ cố gắng
đi tìm lại hồn thơ

gõ gõ gõ và gõ
câu thơ cứ lặp đi lặp lại
nhà thơ có cảm giác cổ họng mình nghẹn ứ
trên bề mặt của những con chữ
ẩn chứa bao điều dở dang...

Tiên Phước, 16.05.2017

ĐIỀU ƯỚC

ước gì
tôi cầm cuốn thơ lên
lật ra từng trang một
và đọc
và sau đó ngồi khóc
một cách ngon lành.

Đà Nẵng, 08.05.2017

PHAN NAM.


READ MORE - THƠ VÀ THƠ... - Chùm thơ Phan Nam

THẦY VỀ - Thơ Phan Minh Châu




THẦY VỀ
(Viết cho thầy Nguyễn Đức Giang nhân chuyến về Việt Nam ra Tuy Hoà thăm lại trường xưa bạn cùng thời và đám học trò cũ.)

Thầy về dáng vẫn như xưa
Tám mươi hơn ngỡ như vừa bảy mươi
Thầy cười nét vẫn còn tươi
Vẫn bao dung vẫn một đời bao dung
Thầy từ đất nước xa xôi
Nhớ quê trăm nỗi bồi hồi nhớ quê
Nhớ trường nhớ đám trò xưa
Mấy mươi năm biết có vừa lòng không?
Thầy về ra Huế thăm cô
Thăm bầu bạn cũ đi mô hết rồi?
Xót xa lòng bỗng bồi hồi
Nhớ trường nhớ lớp buồn vui ngập lòng
Thầy về thầy Toản đã xa
Chỉ còn lại đó cánh hoa thắm màu
Thắp lên một nén hương lòng
Mà nghe khoé mắt từ sông thổi về
Nhìn sân trường cũ vắng hoe
Đứa đi biệt xứ đứa nghề Thiện, lương
May còn sót chút yêu thương
May còn lại đó đôi trò TUYẾT,CÔNG
Sáng đưa thầy viếng con đường
Ngày xưa thầy đã vấn vương một thời
Nhà xưa đổi chủ thay ngôi
Nhà xưa còn đó mình người lạ đây!
Một thời! Dạ cứ mang mang
Bao buồn vui cứ lan man cỏi lòng
Thầy vào lại đất Nha Trang
Đi thăm lại những phố phường ngày xưa
Một thời rể má dây mơ
Một thời chốn cũ bên bờ rẽ phân
Ghé ra Đà Nẵng một lần
Biết mai đây có được gần nữa không?
Đời thầy cũng lắm gian truân
Rày đây mai đó để lòng sẻ chia
Tám mươi mấy tuổi vẫn về
Thăm trường thăm lớp hương hoa một thời....
Con đây trò cũ của người
Chúc thầy con chúc đời đời với quê...


TIỄN THẦY
(Chiều nay về lại Nha Trang
Chúc thầy con chúc vạn ngày bình yên)

Chiều nay thầy lại ra đi
Tiễn thầy thương buổi phân ly não nề
Đôi ngày một mảnh tình quê
Để bao nỗi nhớ lạc về cố hương
Thầy đi khắp mọi nẻo đường
Thăm bè bạn với yêu thương ruột rà
Còi tàu thúc cuối sân ga
Còn đôi khắc nửa đến giờ biệt ly
Phố chiều thức tiễn thầy đi
Sân ga lẻ bạn biệt ly hởi thầy
Ga chiều đôi thoáng mây bay
Sa vào đáy mắt một ngày yêu thương
Tám mươi hơn! Mấy dặm đường
Nhìn thầy con xót con thương tuổi người
Vuốt đôi lần trán thầy cười
Nếp nhăn năm tháng thay lời bảo ban
Chúc thầy thượng lộ bình an
Thầy đi cho hết quan san cõi này....

             PHAN MINH CHÂU

              Nha Trang
READ MORE - THẦY VỀ - Thơ Phan Minh Châu

HOA NGỌC LAN TRẮNG - Ảnh của Chu Vương Miện





READ MORE - HOA NGỌC LAN TRẮNG - Ảnh của Chu Vương Miện

CHIỀU XÓM ĐẠO - Thơ Ngô Hồng Trung

Tác giả Ngô Hồng Trung


CHIỀU XÓM ĐẠO

Là đà xóm đạo mây thêu
Vui đôi con mắt bóng chiều lướt qua
Tháp cao rêu phủ quê nhà
Áo dài gọi gió khuất xa ngỡ gần
Chuông vang đủng đỉnh tình thân
Em cười mát cả cánh đồng cuối Thu

Gió lay rạ rối lời ru
Mù người Bình Định mến từ thuở xưa
Sấm gầm, kinh vọng lưa thưa
Ai về Sông Cạn thẩn thờ cùng ta
Bỗng dưng hương ấm tình nhà
Sương Thu xóm đạo ai là cố nhân!?

NGÔ HỒNG TRUNG
Đ/c: 46/17/5A Đường 49, KP7
P. Hiệp Hình Chánh, Q.Thủ Đức
TP. HCM
READ MORE - CHIỀU XÓM ĐẠO - Thơ Ngô Hồng Trung

NGÀY VỀ... - Thơ Quang Tuyết





NGÀY VỀ...

"Một đàn chim tóc trắng"
Bay về sân Nguyễn Hoàng
Mắt nhìn nhau rưng lệ
Biết ngày mai có còn


Anh xe lăn bạn đẩy
Em khập khiễng thấp cao
Người chỉ nghe tiếng nói
Đôi mắt mù thuở nao

Chị e dè bước nhỏ
Chân run vì tuổi già
Em băn khoăn tìm - nhớ
Biết bao điều đã qua

Nắng rơi cành Phượng đỏ
Kỷ niệm còn khắc sâu
Ôi! " những ngày thơ mộng"
Giờ tìm đâu... Nơi đâu ?

Từ phương xa vời vợi
Ta trái tim thắm hồng
Còn tươi dòng máu chảy
Lòng vẫn hoài nhớ mong...

               Quang Tuyết
Đợi chờ đến ngày 15/07/2017

READ MORE - NGÀY VỀ... - Thơ Quang Tuyết

CHÙM THƠ CHU VƯƠNG MIỆN 9; 10


              Nhà thơ Chu Vương Miện


CHÙM THƠ CVM 9

nắng mưa vét cạn tình nhân thế
bão tố lùa đi mọi xác người
ngồi đó đủ tứ chi đầu óc
thực tình y tảng đá nung vôi
miệng thời bi bô lời nhảm nhí
thực ra tim óc chết lâu rồi ?
những con ma sống đang quờ quạng
vuốt ve cho bóng một chữ tồi
cũng thân tôm tép thân chùm gửi
cũng chả ra chi ? buổi giao thời ?

người gửi cho ta niềm câm lặng
ta đành im lặng để hồi âm
mơi sau có kẻ bươi thùng rác
chỉ mất công toi chỉ tiếc thầm
xa xăm thì đã xa xăm nhỉ
chả quên chả lạ bụi hồng trần
buổi sớm từ phía lưng bay lại
buổi chiều thoang thoảng dấu chân non
cũng chả bệnh chi mà cũng cảm
thì ra ngơ ngẩn một tri âm
ba chân tập tễnh sau ngõ trúc
bốn mắt mà sao mãi chả gần ?


CHÙM THƠ CVM 10

cõi tạm 
cõi sống
cõi đi về
anh hùng một cõi
cõi sơn khê
cuối đời 
chỉ còn một cõi
dzìa quê

kẻ ho ra bạc
kẻ khạc ra tiền 
kẻ nằm nơi đất
kẻ phiêu diêu miền cực lạc
thơ người xưa
"lòng ta là một hàng thành quách cũ "
toàn là đá ong khô
xây lót bằng mật mía
dầu rái
ghé thăm ngôi mộ Hàn Mặc Tử
ngay chân Ghềnh Ráng
cỏ hoang mọc lơ thơ
sóng vỗ quanh năm
một chỗ thi sĩ nằm

CHU VƯƠNG MIỆN

READ MORE - CHÙM THƠ CHU VƯƠNG MIỆN 9; 10

TIẾNG THỞ... THỞ DÀI! - Thơ Trần Mai Ngân



                             Trần Mai Ngân




TIẾNG THỞ... THỞ DÀI!

Đêm nghe tiếng thở
Tiếng thở... thở... dài
Thương phận người... người hôm nay
Đầy khuyết con trăng phôi phai đợi chờ

Đêm nghe tiếng thở
Ngậm ngùi... ngậm ngùi
Mãi hoài không có niềm vui
Hai tay rời rã buông xuôi bởi vì...

Nước mắt tràn mi
Tiễn nhau... tiễn nhau
Đời không có phép nhiệm mầu
Ngày bên nhau đã còn đâu hỡi người!

Duyên phận nửa đường
Dặm trường đành xa
Tuổi đời như một cánh hoa
Nổi chìm rồi cũng nhạt nhoà lênh đênh!

Cố quên cố quên
Chàng ơi! chàng ơi...
Đêm nghe tiếng thở 
Tiếng thở... thở dài!

                             Trần Mai Ngân

READ MORE - TIẾNG THỞ... THỞ DÀI! - Thơ Trần Mai Ngân

GIẤU... - Thơ Tịnh Đàm


                   Tác giả Tịnh Đàm



GIẤU...

Giấu trong lòng mãi lụy phiền,
Đành nhờ mộng gửi đến miền ước mơ.
Buồn xưa tứ cõi xa mờ,
Còn nghe hoài vọng bến bờ yêu
Thương.

Giấu trong lòng nỗi đoạn trường,
Cuả bao năm cũ vẫn thường nhói
Đau !
Cuộc vui chưa trọn bên nhau,
Ân tình được mấy đã sầu biệt ly!

Giấu trong lòng những nghĩ suy,
Kiếp người như có chút gì mong manh.
Mới hôm nào tóc còn xanh,
Mà nay thoáng chốc đã thành màu sương.
Trần gian dẫu biết khôn lường,
Cũng xin làm chốn nghỉ nương phận đời.
Mai sau ,cứ mặc đầy vơi,
Riêng tôi vui với góc trời an nhiên.

                              Tịnh Đàm
                             (TP. HCM)

READ MORE - GIẤU... - Thơ Tịnh Đàm

HÃY CHÌA TAY RA! - Hoàng Đằng


               
                              Tác giả Hoàng Đằng



HÃY CHÌA TAY RA!
(Nói với con cháu)

Nhà lão có một mảnh sân rộng khoảng 30 mét vuông. Sân lão không có mái che như sân các nhà khác trong xóm; lão muốn để vậy cho thoáng nắng, thoáng gió.
Mùa hè, lão bưng ghế ra giữa sân, ngồi, hóng gió, tránh cái nóng hừng hực trong nhà. Mùa đông, lão tựa cửa nhìn ra; bên ngoài, mưa rỉ rả rơi, từng luồng gió lạnh thổi rào rào. Những lúc ấy, lão miên man nghĩ chuyện đời. Ngày xưa, triết gia Descartes (1596 – 1650) viết: “Tôi suy tư, ấy là tôi hiện hữu” (Je pense, donc, je suis); còn ở trường hợp của lão thì “tôi còn hiện hữu, nên tôi suy tư” (Je suis, donc, je pense). Nghĩ cũng nực cười, những suy tư của lão không đem lại ích lợi gì hết; Trời cấp cho lão cái bản tính như vậy; đành chịu!
Nhìn những việc trước mắt, nghe những chuyện bên tai hàng ngày, ngẫm lại những chuyện trong lịch sử cả nhân loại, từng quốc gia, từng dòng tộc và ngay bản thân mình, lão thấy cuộc sống này vô nghĩa. Lão không biết Trời sinh ra con người để làm gì? Để làm đẹp đời ư? Không. Bao nhiêu nền đạo đức thời này dựng lên thời sau đạp đổ, bao nhiêu công trình “vật thể” đời này xây lên đời sau giật sập. Trong cuộc cạnh tranh sinh tồn, loài này huỷ diệt loài kia, ngay cả đồng loại như con người chẳng hạn cũng giành giật, ganh tỵ, giết chóc nhau; trớ trêu là kết cục của mỗi đời sống là gì – chỉ là cát bụi.
*
*       *
- Sao ông cho người ta để đồ choán cả sân, cháu không có đường đi vô đi ra đây này!
Dòng suy tư của lão đang ngon trớn thì đứa cháu gái của lão bới phần cơm trưa tới cho lão; cháu vừa lên tiếng phàn nàn vừa cất cao chân bước lách giữa những đống vật liệu xây dựng nào sắt, nào thép, nào ciment ... nằm ngổn ngang trên sân.
Thay vì sống chung với con cháu như đa số các người cao tuổi khác, lão sống một mình trong một ngôi nhà nhỏ; nhà của các con lão – mỗi đứa mỗi cái - ở chung quanh. Thấy lão già yếu mà ở vậy, ai cũng thắc mắc:
- Sao không ở với con? Ở rứa, đêm hôm lỡ có chuyện rắc rối về sức khoẻ, mần răng?
Lão nghĩ rằng ở với con, chung đụng, không nhiều thì ít mất tự do. Mỗi người cần có một không gian riêng - cái nhà của mình; đó là nơi mình có chủ quyền trọn vẹn: “Nhà ta, ta lết, ta bò, mặc ta.”
Tuy nhiên, dù ở riêng, cuộc sống hàng ngày của lão vẫn tuỳ thuộc vào con cái; lúc bình thường, chúng phải lo ăn lo uống cho lão, lúc ốm đau, chúng phải lo thầy, lo thuốc.
*
*       *
Trời đang giữa tháng 11 Âm Lịch; thời tiết không thuận lợi cho những công việc ngoài trời: một ngày tạnh, năm bảy ngày mưa; thế mà một cặp vợ chồng trẻ đang chuẩn bị xây nhà ở đám đất trống bên cạnh nhà lão.
Vợ chồng này vừa mua đám đất đó. Dư biết thời tiết sẽ cản trở việc xây dựng, họ vẫn quyết định thi công để làm sao nhà xong, kịp dọn tới ở trước Tết. Từ trước đến giờ, vợ chồng này thuê phòng trọ. Người vợ đang mang bầu, cái bụng to kéo cái lưng oằn về phía trước, nghe nói chừng hai tháng nữa ... sinh. Hợp đồng ký với chủ phòng trọ là thuê chỉ để ở, chứ không được sinh đẻ - sinh đẻ mang xui xẻo đến, hại cho việc kinh doanh của họ.
Vợ chồng đã ghé các nhà liền kề đám đất xin sử dụng điện, nước thi công. Không nhà nào cho! Mà bắt điện, bắt nước cần nhiều thủ tục tốn thời gian. Tình hình coi bộ nan giải!
Vợ chồng phủ kín trong bộ đồ mưa, đứng, nhìn đám đất, mặt buồn rũ rượi. Nhà lão ở phía bên kia đường, qua tấm kính cửa sổ, thấy vậy, lão đi ra, xáp mặt, lên tiếng như hỏi thăm làm quen:
- Cô chú làm nhà đây à? Khi mô mới mở móng? Ừ, về đây ở làm xóm làm giềng cho vui. “Bà con xa không bằng xóm giềng gần” đó nghen!
Hai vợ chồng “dạ” một tiếng rất rập. Thấy lão có thiện cảm, một chốc sau, cô vợ vào nhà lão, năn nỉ:
- Thưa ông, chúng cháu làm nhà sẽ có dùng điện nước, mà chúng cháu  xin mấy nhà kia không ai cho, chừ xin ông giúp cho chúng cháu với! Chúng cháu xin được hoàn trả chi phí số lượng điện, nước đã tiêu thụ.
Lão trả lời không chút do dự:
- Điện nước nhà tui đó cô chú cứ dùng.
Cô vợ mừng, mặt tươi rói, cảm ơn ríu rít rồi đi ra báo tin với chồng. Vợ chồng trao đổi với nhau gì đó, rồi ngoái cổ về phía lão, gập đầu lên xuống nhiều lần. Lão đoán cả hai đang bày tỏ lòng biết ơn.
Hết nỗi lo điện nước, vợ chồng tìm chỗ che rạp chứa vật liệu – nhà kho tạm. Cả đám đất đang lắp xắp nước, phủ đầy cỏ dại; dựng rạp cũng khó đây, che ở đâu, che làm sao để việc xây dựng nhà khỏi cấn cái.
Vợ chồng đang chỉ vào góc đám đất có đống rác nham nhở do các nhà lân cận đổ dồn trong thời gian qua; nhìn đống rác mà buồn cho dân mình! Họ suy nghĩ quá đơn giản - rác nhà mình cứ đem đổ sang đất hàng xóm, thế là xong, thế là sạch!
Lão cảm thấy xao xuyến trong lòng; thôi thì phải giúp đỡ vợ chồng đang ở thế bí này thêm chỗ chứa vật liệu. Lão gọi vói:
- Cô chú vô đây, tui nói cho mà nghe này, trời mưa gió rứa mà đặt kho vật liệu chỗ nớ, ướt át mần răng? bảo vệ mần răng? Cứ kêu xe đổ vật liệu vô sân nhà tui đi!
*
*       *
Mưa rơi rền rĩ không ngớt hạt, cái sân không rộng, vật liệu quá nhiều, lại thêm, người vô kẻ ra vấy bùn nhão nhoẹt; cháu lão phàn nàn là phải. Nhưng, biết làm sao giờ; người bên cạnh mình đang đợi bàn tay mình chìa ra, níu họ vượt qua khó khăn. Cháu ơi! Đó là việc nên làm, mình không chịu làm thì lỡ mất một cơ hội làm việc tốt. Ở đời, đừng đợi có việc tốt to tát mới làm; hãy làm những việc nho nhỏ mà mình may mắn được Trời cho gặp!
Lão nhớ lại sau năm 1976, phải sống trong rừng sâu, lão bị sốt rét, mỗi lần lên cơn, lão mê man; nếu người bạn đồng cảnh ngộ không cho mấy viên thuốc hiếm – Fansidar - mà gia đình gởi cho bạn ấy phòng thân, thì liệu lão có còn trên cõi đời này nữa không!
Lại thêm, năm 1979, lão cùng đoàn đội vào miền trung du khai hoang trồng cây lương thực chống đói. Một buổi sáng, ngoài dụng cụ: cúp, rựa, cuốc, lão kéo thêm chiếc “xe kéo”; lão tính chuyện sẽ nhặt các gốc cây đã bới lên đem về làm củi đốt; dạo ấy, lão đang trong hoàn cảnh bi đát: gia đình neo đơn, thiếu thốn mọi bề, phải xoay xở để tồn tại. Rủi cho lão đạp phải gốc sim nhọn vào gan bàn chân, máu chảy lai láng. Củi đã không nhặt được, mà xe, lão lo, không biết nhờ ai kéo giùm khi về. May là một người trong đội thấy được nỗi lo hiện trên mặt lão, tình nguyện giúp lão  kéo xe về.

“Cháu ơi! Trong lúc người hàng xóm của ông đang làm nhà, cháu đi vô đi ra nhà ông có khó khăn đó, nhưng cháu đừng phàn nàn nhé! Ông mắc nợ đời nhiều lắm, cháu thông cảm để ông trả dần được chừng nào hay chừng ấy!”./.

                                                                Hoàng Đằng
                                                   23/6/2017 (29/5/Đinh Dậu)

READ MORE - HÃY CHÌA TAY RA! - Hoàng Đằng