Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Friday, January 13, 2017

ĐÁNH CỜ OAI - Tạp văn của Ugno.Vn


           
                                   Tác giả Ugno.Vn


                 ĐÁNH CỜ OAI

Cờ oai là thú chơi dân gian của các cụ già vùng Trị Thiên. Cờ oai đọc theo tiếng địa phương Huế, Thừa Thiên, không phải đánh cờ cho oai, đánh cờ để lấy oai. Từ “oai” ở đây không phải nghĩa như trong từ oai phong, oai hùng. Oai chỉ là tên một dụng cụ chứa cá của những  người bắt cá vặt vãnh ở nông thôn. Đúng ra phải nói là “oi”. Nhưng ở vùng quê tôi, những từ có vần “oi” đều được phát âm thành “oai”, như “củ tỏi” thành “củ toải”, “ăn nói” thành “ăn noái”… Sở dĩ có tên là cờ oai vì các con cờ được chứa trong cái oi. Khi không có người chơi, cả oi cờ nằm trong chạn tủ, cất giữ bộ cờ. Khi vào chiếu cờ, cái oi là nơi để các cụ vất vào con cờ vừa ra trình làng xong, trước khi chuyển qua nước cờ khác. Cái oi nho nhỏ hình trái bầu eo, loe miệng, bện bằng cật tre, hay cật mây song đủ lớn để, khi chứa hết bộ cờ, con cờ vừa ngang dưới miệng loe, không lộ, không tràn con cờ ra ngoài. Cái oi cờ dùng lâu ngày đen bóng, nhẵn thín để giữa chiếu trông như chiếc bình hồ lô của Phật Quan Âm hay cái hủ rượu của các tiên tửu, chung quanh có bốn tiên ông ngồi đánh cờ nhấp nhỏm, thập thò.
Cờ oai dùng 32 con cờ của bộ cờ tướng, chia làm hai nhóm trắng và đỏ. Mỗi nhóm 16 con gồm một quân tướng, năm quân tốt, các quân kia mỗi quân hai con. Nhóm trắng gọi tướng là tướng lát, gọi sỹ là sỹ ô, các con còn lại gọi là quân trắng. Nhóm đỏ gọi tướng là tướng điều, gọi sỹ là sỹ điều, các con còn lại gọi là quân đỏ. Trong luật chơi cờ tướng, khi vào thế bị chiếu, thì các quân cờ thắng thế, có thể ăn cả các quân trên, lớn hơn. “Tốt nhập cung thì tướng khốn cùng”. Luật chơi cờ oai có khác. Chỉ quân cờ trên được ăn quân cờ dưới. Hai quân cờ cùng cấp ngang nhau thì quân cờ đỏ ăn quân cờ trắng. Hai quân cờ cùng cấp, cùng màu thì tay cờ ngồi trên vòng ăn cờ tay ngồi dưới vòng.
Bộ cờ dùng trong thú chơi cờ oai được làm bằng loại gỗ bền, dai, không có vân để khi các cụ ra cờ mạnh tay không bị nứt, vỡ; khi úp xuống chiếu không có dấu để lộ quân cờ. Các bộ cờ quí thường được tiện bằng trắc, một loại gỗ quí hiếm, sử dụng lâu ngày lên nước đen bóng nhẫy. Con cờ hình khối viên trụ dẹp, đường kính khoảng ba phân rưởi, dày non một phân, cạnh đứng con cờ tròn đều trên dưới, trông như chiếc nút áo lớn bằng gỗ. Mặt trên con cờ khắc tên quân cờ bằng chữ nho rất bay bướm, cân đối ở giữa, có một vòng tròn kẻ viền quanh. Đi kèm bộ cờ oai phải có con vụ bằng gỗ hình khối lăng trụ, cạnh hơn một phân, chiều cao hai phân, bốn mặt chung quanh được tiện lõm sâu các chấm ghi thứ tự nhất (một chấm), nhị (hai chấm), tam (ba chấm), tứ (bốn chấm). Hai chân con vụ cao chừng một phân, được tiện cân đối từ  phần gỗ dư ra ở hai đáy khối lăng trụ, dùng để điều khiển con vụ khi sử dụng. Công dụng của con vụ là để phân thứ tự người bắt cờ cho mỗi ván.


      

Người chơi cờ oai là các bậc có tuổi. Các cụ thường xây sòng trên bức ngựa gỗ căn giữa nhà. Khi đã đủ bốn tay chơi, chiếc chiếu hoa được trải ra, bốn cụ ngồi  xếp bằng ở bốn góc chiếu. Vị cao tuổi hoặc chủ nhà lấy oai cờ đổ ra chiếu, lật sấp các con cờ, xoa đều rồi xếp vòng tròn quanh chiếu, trước mặt các cụ. Người chủ cái nắm một chân con vụ bằng ngón cái và ngón trỏ. Với một tác động của hai ngón tay, con vụ quay tròn giữa chiếu. Khi con vụ đang quay, người chủ cái bốc một con cờ bất kỳ nào đó, chồng úp lên con kế tiếp, chỉ định vị trí của con cờ phải được người chơi bốc đầu tiên của vòng cờ. Khi con vụ ngã ra, mặt trên của con vụ hiện rõ số nào thì người có thứ tự đó, kể từ bên phải chủ cái tính ra, được bắt con cờ cái đầu tiên. Tuần tự, các cụ tiếp tục bắt các con cờ tiếp theo vòng quanh, đến con cờ cuối cùng.
Trong một ván cờ, một tay chơi được bốc tám con cờ. Sau khi kiểm cờ, các cụ tính toán, sắp xếp các con cờ  theo từng bộ với các quân cờ có được trên tay. Nếu có đủ ba con tướng, sỹ, tượng hoặc xe, pháo, mã cùng màu thì được một bộ ba: Bộ ba thượng (tướng, sỹ, tượng đỏ), bộ ba lát (tướng, sỹ, tượng trắng), bộ ba đỏ (xe, pháo, mã đỏ), bộ ba trắng (xe, pháo, mã trắng). Nếu có hai con cùng tên, cùng màu thì được một đôi: Đôi sỹ ô, đôi pháo trắng… Nếu có 4 hoặc 5 con tốt cùng màu thì được bộ tứ (bốn con), bộ ngũ (năm con). Những con không xếp được vào một bộ nào thì gọi là con rác, chỉ dùng đánh lẻ một con.
Bắt đầu ván cờ, người có thứ tự được con vụ chỉ định bắt con cờ cái đầu tiên, hô lệnh ra nước cờ: Một con (đánh lẻ từng con một), cặp (đánh một đôi), ba con (đánh bộ ba), bốn con hoặc năm con (đánh bốn hoặc năm con tốt). Khi đã đủ các tay chơi có cờ đặt xuống chiếu, nếu kêu ra lệnh “một con”, người hô có quyền trình con cờ giữa làng, hoặc vất vào oai chịu thua, không trình; nếu kêu ra lệnh “cặp”, “bộ ba”, “bốn con”, “năm con” thì buộc người hô phải trình giữa làng nước cờ mình đã kêu có đúng không. Những người khác, nếu có nước cờ bắt cao hơn, thì thắng, nếu thấp hơn hay không có thì phải vất vào oai đủ số con cờ đã kêu. Luật này buộc số con cờ còn lại trên tay mỗi người chơi luôn luôn bằng nhau. Khi người kêu lệnh ra cờ  đã lật ngửa nước cờ trình làng, những tay sau không được đổi những con cờ đã cho tay đưa xuống chiếu.
Nói đến đánh cờ oai ở làng tôi thì không thể không nói đến ông Xạ Thường. Khi tôi mới lớn, trong làng tôi có đến mấy ông Xạ. Tôi không biết Xạ là chức gì nhưng biết chắc rằng đã gọi là ông Xạ trước tên tục của một người trang trọng như thế thì, ít ra, cũng phải là cái chức cao hơn đám dân đen bình thường vài bậc. Ông Xạ S. Ông Xạ Đ. Ông Xạ K. Ông Xạ T. Khi không có mặt mấy ông ấy hay nói với tính cách liệt kê, chỉ đếm… mới gọi đủ cả chức và tên. Khi nói riêng hay thưa gởi với từng ông thì chỉ  xưng danh ông Xạ. Lệ này ở cái làng trọng chức quyền như làng tôi thì không thể bỏ qua được. Sơ sẩy quên đi khi thưa gởi với mấy ông là có chuyện ngay. Không những ông Xạ mà làng tôi còn có những ông Hương, những ông Hường, những ông Thông, những ông Khóa, những ông Bộ, những ông Trùm, những ông Lý, những ông Xâu… bên cạnh những ông Cửu, ông Bát, ông Thất… trong hàng cửu phẩm văn giai, hay ông Cai, ông Đội, ông Quyền, ông Quảng, ông Lãnh… trong hàng võ biền. Một lô lốc những ông có chức ấy không những miễn sưu dịch, miễn phục vụ việc làng mà còn được quyền ăn trên, ngồi trước mỗi khi lễ lạt. Đám dân đen phục vụ cơm rượu mấy ông tối mặt còn bị  quát mắng, thậm chí cả đòn phạt. Mấy ông cơm rượu no nê trước đình rồi kháy móc nhau, kèn cựa nhau, ồn ào cả khu tiền đường trong khi đám dân đen chỉ được phép ngồi vào mâm phía ngoài rạp khi các ông đã buông đũa chuyển sang dùng trà.
Trở lại việc đánh cờ oai của ông Xạ Thường (Gọi tắt là ông Xạ), ông là một tay cao cờ thuộc tốp nhất nhì làng tôi. Vì cao cờ nên khó chọn khách chơi. Không ai dám chơi với ông và ông cũng không mặn mà lắm khi ngồi chơi với mấy ông cờ còn non tay. Suốt ngày tôi chẳng thấy ông làm gì cả. Mỗi sáng, bà Xạ nấu cho ông một om nước chè xanh quánh miệng, người không nghiện thì chỉ vài hớp là say sùi bọt mép. Thế mà ông hết cốc này đến cốc khác. Nhà ông trở hướng chánh đông, khi ông uống chè, ánh nắng ban mai còn chiếu vào tấm phản giữa nhà, nơi ông ngồi. Khi mặt trời kéo bóng râm ra hàng hiên là lúc ông lủi thủi, tay cầm cái càng cọng mo cau khô cắt gọt thành cái thuổng kỳ lưng, xuống bến sông ngâm mình trong nước mát, kỳ cọ tấm thân da bọc xương. Trở lên nhà, ông lật vài trang sách chữ nho ngồi lẩm nhẩm hay ra trước nhà nhìn con  cu cườm trong chiếc lồng tre, treo cuối đầu hồi, nhả từng tràng cúc cù cu. Sau bữa trưa, ông nằm lăn ra tấm phản gỗ, kê đầu lên cái gối gỗ mứt, đánh một giấc. Cái lịch sinh hoạt ấy dễ bị phá vỡ khi có mấy cụ già rủ ông vào hội cờ hay mời đi ăn giỗ. Những khi ấy, cái khăn đóng, cái áo dài vải the đen, đôi guốc mứt, và gọng dù đen le te theo ông cùng mấy người bạn đến chỗ hẹn.
Hôm ấy là ngày giỗ mãn tang của một ông trong nhóm bạn cờ của ông, chết đã ba năm rồi. Người con trưởng trịnh trọng mời các cụ trong nhóm cờ của cha mình ngày trước đến sớm, xây sòng cờ khơi dậy khí thế, vừa để nhớ lại không khí những ngày ông cụ sinh tiền. Ngồi vào chiếu cờ là những kỳ thủ lão luyện trong làng. Bốn người chơi và còn vài người ngoài đứng xem. Cờ đánh cứ huề mãi, ít có ăn thua. Luật cờ oai là thế. Nếu thấy cờ trên tay khó đánh ăn được thì tính nước đánh huề. Một trong hai con tướng thắng được nước cờ “một con lẻ” cuối cùng thì nhà cầm tướng không được ăn tiền. Ván cờ xem như huề. Tôi đứng sau ông Xạ xem vài ván cờ cho biết. Ván cờ này đã đánh đến nước thứ tư. Người kêu ra lệnh “một con” rồi dằng ra chiếu  con tượng đỏ. Ba tay cờ sau tuần tự vất con cờ của mình vào oai. Được thắng nước thứ tư, tay cờ này  kêu lệnh “ba con”. Hai tay cờ trên ông Xạ trầm ngâm suy nghĩ rồi tuần tự bắt cờ xuống chiếu. Là tay cuối, ông nghĩ rằng tay kia kêu bộ ba, còn một con lẻ cuối cùng là có ý chơi huề. Con cờ còn trên tay ông ta chỉ là quân cờ rác. Nếu một trong ba tay còn lại trình ra con tướng, thắng ở nước cuối thì theo đúng ý đồ của hắn. Nhưng hai tay cờ  trên ông đều bắt cờ, không tay nào muốn huề cả. Lần nhớ lại những nước cờ lẻ từ đầu đến nước thứ tư, ông Xạ nhẫm tính, ngoài bộ ba thượng và con sỹ ô trên tay ông, trên hai tay kia còn bộ ba lát, con sỹ điều. Trong hai tay bắt cờ, ông đoán con sỹ điều nằm trên tay cờ có bộ ba lát. Tay còn lại  không có gì, chỉ chờ vất vào oai. Ông tự nhủ: “nó muốn ăn ván này”. Nhưng nếu ông ra bộ ba thượng để nổi thì con sỹ ô của ông còn lại không thắng được con sỹ điều của tay kia. Nếu ông xé bộ ba thượng, vất vào oai cùng với con sỹ ô, chừa lại con sỹ điều thì cũng thua vì là  tay dưới của bộ ba lát. Ông tiếc ngẩn ngơ bộ ba thượng và con sỹ ô. Cờ to mà không sạch được nước cờ!...Thôi!... Ông rút con tướng đỏ chìa ra. Ông thắng nước cờ cuối cùng. Ván cờ huề. Chơi ván khác!... Cờ lại được xoa xuống chiếu, xếp vòng tròn rồi bốc từng con tuần tự. Những tiếng “một”, “đôi”lại nhè nhẹ vang lên .
Thế hệ những ông Xạ, những ông Bộ, những ông Cửu, những ông Lãnh… không ai còn lại đến ngày nay. Có người đã chết yên ổn tuổi già bên con cháu ớ các vùng quê mới nơi xa xứ. Có người chết vì mảnh bom, tầm đạn nơi quê nhà. Cũng có người chết tức tưởi trong hầm tối căm thù mông muội. Một buổi tối, ông Xạ ngủ với  đứa cháu  nội trên tấm phản căn giữa nhà. Bố nó đi đánh cá đêm ngoài sông, gởi nó cho ông nội, phòng khi có đại bác, ông đưa cháu xuống hầm  tránh đạn. Vừa chợp mắt thì có tiếng gọi ông. Ông choàng dậy. Mấy người kia không cho ông đốt đèn và dẫn ông đi. Đứa cháu nội đứng nép bên tấm cửa, thút thít, không dám khóc to. Mấy ngày sau, dân làng tìm thấy ông trong căn hầm cạn, giữa hai rãnh vồng sắn ở cánh đồng làng bên, cách nhà ông hơn năm cây số. Chiếc guốc mứt đã mòn lẹm một bên đế gót, chỏng chơ trên vồng sắn là dấu hiệu để dân làng tìm thấy ông.
Ông Xạ chết. Đám tang ông được tổ chức âm thầm, không ai nghe có tiếng khóc. Tấm phản ông nằm ngủ mỗi đêm, nay được bà con đóng lại thành chiếc quan tài. Thế là ông cũng còn may mắn hơn nhiều người khác, được mồ yên mả đẹp bên xóm giềng, con cháu.
Cờ oai vẫn còn tồn tại đến hôm nay ở quê tôi và những vùng quê mới, nơi có nhiều ông già người Huế định cư. Bây giờ không kiếm đâu ra được những bộ cờ gỗ trắc bóng nhẫy, đen láng. Những thứ gia bảo quí báu ấy đã đi theo các ông Xạ, ông Hường… qua bên kia thế giới. Các cụ già ngày nay không còn guốc mứt, quạt mo cau. Bộ cờ chỉ là bằng gỗ thông thường, đôi khi chỉ là bằng một loại nhựa giả gỗ. Thế mà trên chiếc sập đi văng sang trọng, vét ni láng bóng trong nhà con cháu, các cụ già mới cũng trải ra chiếc chiếu hoa, phủ thêm tấm chăn dày, xây sòng cờ oai. Khi có cụ cao hứng ra cờ mạnh tay, đánh rầm xuống chiếu, người khác lại nhắc: “Nhẹ tay kẻo bể”. “Bể” là sợ nứt cờ và cả nứt mặt sập đi văng. Cách chơi cờ nay cũng khác xưa. Trước kia, các ông Xạ, ông Hường… chơi cờ là để mua vui, cao thấp thư giãn tuổi già. Lệ chơi cờ oai ăn theo từng ván khiến mấy cụ cứ gườm nhau cao thấp, có khi cả chục ván huề mới có được một ván ăn. Cuối buổi, kẻ thua, người thắng không bao nhiêu tiền. Ngày nay chơi cờ từng ván nhưng ăn theo quân cờ được nổi. Trong một nước cờ, bốn người chơi thì chỉ có một người nổi (thắng). Cuối ván cờ, người không thắng nước nào, hay thiếu nước thắng, phải chung tiền cho người thắng nhiều nước. Lệ chơi cờ  oai ăn quân không còn  ván huề và cũng vì thế người chơi cờ chỉ tính sao để mình thắng được nhiều quân bằng cách cho mấy quân cờ to ra trước, không tính cao thấp cả ván cờ. Cuối buổi, kẻ thắng đậm, người thua  nhiều đôi khi sinh ra mâu thuẫn giữa các cụ ngay trong chiếu cờ. Cái thú cờ oai của các cụ ngày xưa đã mất đi một nửa. Nhưng cũng nhờ thế, tính chất thú chơi mang tính “sát phạt” làm cho chiếu cờ hấp dẫn, động não hơn.
Mỗi dịp đầu xuân hay những khi tang tế, giỗ chạp, người làng tôi vẫn còn say mê những ván cờ oai. Một lần về quê vào dịp tết, gặp chiếu cờ, tôi  xin các cụ cho tham gia vài ván chào các cụ. Nể nang, các cụ chừa cho tôi một chỗ. Tôi say mê học từng nước cờ cao của các cụ và cảm thấy hình như mình cũng đã già. Trở lại nơi tôi định cư, ở đó cũng có nhiều người cùng quê lớn tuổi, tôi rủ các cụ làm vài ván cờ oai. Không khí quê hương như sống lại với tôi theo các con cờ bắt lên, đặt xuống chiếc chiếu hoa còn mới ở nơi xa xứ này.

                                    Tạp chí HUẾ XƯA & NAY 
                 Số 121 Mừng Xuân Giáp Ngọ  tháng 1-2/2014

READ MORE - ĐÁNH CỜ OAI - Tạp văn của Ugno.Vn

TỨ TUYỆT XUÂN - Chùm thơ mùa Xuân của Mặc Phương Tử




TỨ TUYỆT XUÂN


Phải đâu!


Giữa bộn bề cuộc sống
Đời vùi giấc ngủ xuân
Ta đi giữa Thực-Mộng
Mắt nhìn không phân vân.


Đời sửa soạn


Bao sắc màu diễm lệ
Đoạn trường cuộc rong chơi
Đất trời Xuân... như thế !
Tình nguyên sơ đất trời.


Đời khuya


Ký ức bộn bề đã tắt
Chợt ra, dừng cuộc chiêm bao
Nẻo về từ trong tầm mắt
Gặp ta từ buổi xuân nào.


Trong đầm


Con trâu trầm dưới nước
Quẩy đuôi hạnh phúc đời
Thong thả mồn nhai cỏ
Mùa xuân nào qua tôi !


Con Ong

Ruỗi dong tìm hương mật
Xây tổ kết mùa hương
Đi giữa đời bẩn chật
Kết ngàn hoa xuân phương.


Cuối trời hoàng hôn


Xuân về bên bờ cỏ
Sương qua bãi rêu cồn
Đời qua bao hỷ lạc
Về cuối trời hoàng hôn.


Xuân về


Phong trần say mấy độ
Bạc phếch áo vai đời
Thu về xanh tiếng nhạn
Xuân về hoa cỏ tươi.


Mặt đất


Trời mùa xuân chim gọi
Mở đường sinh loại đi
Chở chuyên đời muôn lối
Thơm ý đạo Từ Bi.


Phật toạ


Yên bình đỉnh non cao vút
Mây chở mùa xuân hào quang
Cho cả tâm hồn cát bụi
Đâu đâu cũng Phật, Niết Bàn.


Chùa Kỳ Viên, South Dakota, Xuân 2017.
MẶC PHƯƠNG TỬ.

READ MORE - TỨ TUYỆT XUÂN - Chùm thơ mùa Xuân của Mặc Phương Tử

DÁNG XUÂN - thơ Trương Thị Thanh Tâm




DÁNG XUÂN 

Không có anh đôi vai gầy run rẩy 
Biết tìm đâu hơi ấm của vòng tay 
Gió cuối đông thèm một chút men say 
Đêm gối mộng bên mùi hương thanh khiết 


Mới hôm nào nụ cười duyên tha thiết 
Mà giờ đây đôi má nét xanh xao 
Dù biết yêu là chấp nhận thương đáu
Không muốn quên đợi chờ thêm nỗi nhớ 


Trái tim nhỏ mà tình yêu quá lớn 
Đừng vô tình để lệ mặn bờ môi 
Tuổi ngây thơ chập chững bước vào đời 
Sao nước mắt vẫn rơi hoài trên má 


Anh có nghe bước xuân về hối hả 
Gốc mai vàng khép nép búp non tơ
Bướm nhởn nhơ chạm khẻ cánh môi chờ 
Hương mật ngọt, xôn xao cành lá mới 


Tay chưa vẫy mà bước chân chới với 
Chưa giã từ sao ánh mắt thờ ơ 
Để nhớ thương đọng lại phút tình cờ 
Hãy giữ lấy điểm dừng thêm đôi chút 


Men yêu sẽ làm lòng ta ngây ngất 
Dáng xuân tươi mang hơi ấm cho đời 
Hãy trao nhau vị ngọt ở bờ môi 
Màu mắt biếc long lanh trời nắng mới.
          Trương Thị Thanh Tâm 
                       Mỹ Tho


READ MORE - DÁNG XUÂN - thơ Trương Thị Thanh Tâm

TÌM CHA TRONG GƯƠNG - Truyện ngắn của Lê Mai

    
        Nguyễn Ngọc Kiên và Lê Mai (từ trái sang)



TÌM CHA TRONG GƯƠNG

Trong căn nhà nhỏ nằm chơ vơ giữa lưng đồi heo hút vẳng lên tiếng nói của Vân thều thào, yếu ớt:
- Cả đời tao chỉ có một mong ước, mong ước cháy lòng… Trước khi nhắm mắt biết mình cũng có người hương khói để chấm dứt chuỗi ngày cô đơn, lạnh buốt  trên cõi đời này. Nhưng giờ thì tao đã biết, mình bất lực rồi… Chẳng lẽ chết rồi, tao vẫn phải cô đơn, lạnh lẽo như thế này ư?...
- Mày đã tìm bé Hồng ở những đâu? – Yến rưng rưng hỏi bạn.
- Tìm khắp Việt Nam. Cứ nơi nào có xã Tiến Bộ là tìm đến. Nhưng địa chỉ nó ghi sai… Có mà mò kim dưới đáy biển.
- Mày đã hỏi ông Dũng chưa?
- Tin gì cái ngữ ấy, hỏi cho phí công.
- Thôi được, để tao đi hỏi cho. Trước là thủ trưởng nó khác. Giờ ông ấy về hưu rồi, là dân rồi, hoàn lương rồi nó khác chứ.
- Thôi thì… tùy mày. 
Trước mặt Yến là một tòa biệt thự xinh xắn, đẹp đẽ. Tường rào, cổng vào và khu vườn ngập tràn cây cảnh chứng tỏ chủ nhân ngôi nhà là con người lịch lãm, có học vấn cao. Yến rụt rè bấm chuông. Phút tĩnh lặng trôi qua. Người đàn ông béo trắng trong bộ đồ pyjama nhanh nhẹn ra mở cổng. Bỗng ông bất ngờ reo:
- Yến! Yến! Cơn gió nào cuốn em đến đây thế này? Vào đi! Vào nhà đi! Quý hóa quá! Quý hóa quá!
Thận trọng bước theo người đàn ông vào nhà, Yến hỏi:
- Nhà đi đâu hết, còn mỗi anh thôi à!
- Có ai đâu mà bảo đi đâu hết. Bà xã mình mất đã 6 năm. Thằng lớn lấy vợ và lập nghiệp ở Ôxtrâylia. Thằng nhỏ lấy vợ và mưu sinh ở Mỹ. Ở đây có mỗi mình… Anh em mình xa nhau dễ gần 30 năm rồi Yến nhỉ. Nghe nói, em bây giờ là giám đốc công ty gì lớn lắm phải không? Tiến bộ quá! Tiến bộ quá!

Cử chỉ, lời nói của người đàn ông trả lại cho Yến sự tự tin, dễ gần hàng ngày. Nhấp  ngụm nước chè thơm phức nóng giẫy xong, Yến nói:
- Tướng quân nói đúng, cơn gió mùa đông Bắc lạnh buốt cuốn em tới đây. Có việc quan trọng phải nhờ đến sự trợ giúp của anh, nghe xong anh sẽ rét, rét buốt, không hiểu anh có giúp cho không?
- Về hưu lâu rồi, tướng tá gì nữa đâu mà quan trọng với không quan trọng. Việc quân thì thôi. Việc dân có gì xin cứ nói. Giúp được đến đâu tôi sẽ cố hết mình.
- Chuyện cái Vân anh ạ!
- Chuyện Vân à. Tôi cũng linh cảm thế. Vân giờ sống thế nào?
- Nó khổ lắm, sau khi ra quân không hiểu sao chẳng chịu lấy chồng, dù có rất nhiều người đứng đắn, tử tế đặt vấn đề. Khi khỏe ở với vợ chồng cậu em, giúp đỡ cho vợ chồng nó. Khi biết mình mắc bệnh hiểm nghèo, sợ làm phiền lụy đến người khác, nó đùng đùng bỏ ra ở riêng. Một túp lều đơn côi giữa lưng đồi lộng gió. Cô đơn, heo hút… Giờ thì kiệt sức rồi. Tuần qua chúng em phải luân phiên nhau đến chăm nom nó… Sự sống chỉ còn tính theo ngày. Nó chỉ có mong ước duy nhất: trước khi mất được nhìn thấy mặt con, để biết mình cũng được như mọi người có kẻ chăm lo hương khói cho hồn khỏi bơ vơ, lạnh lẽo. Sống cô đơn, chết đơn độc thì khổ lắm anh nhỉ. Anh cho thằng Hồng đến với nó anh nhé.
- Sao các bạn biết tôi biết chỗ ở của cháu.
- Nói anh tha lỗi, chúng em không chỉ biết có vậy. Chúng em còn biết rõ: Hồng chính là con anh. Nhưng… lấy cớ để bảo vệ sự trong sạch của Đảng bộ, để giữ gìn sự nghiệp cho Vân, anh đã khôn khéo vận động mọi người động viên Vân, để nó phải cho con đi. Như vậy anh thực sự an toàn, hơn nữa trong con mắt của nhiều người anh còn là một thủ trưởng đầy nhân ái, thấu tình đạt lý. Tội của anh hồi làm thủ trưởng lớn lắm. Nhưng Vân, nó vẫn có sự thông cảm với anh. Nó nghĩ: Anh buộc phải làm vậy chỉ vì sợ, một nỗi sợ rất người. Một người có địa vị như anh, có tính cách như anh nếu không biết chỗ ở của cháu Hồng sao còn là anh nữa. Nó giục em đi tìm anh vì nghĩ: giờ về hưu, là dân chắc anh sẽ khác. Liệu có khác không anh?
- Khác, khác nhiều lắm. Trước đây mình cứ nghĩ: Địa vị, tiền tài, danh vọng là mục đích cao cả mà mọi kiếp người phải vươn tới. Nào ngờ… nó lại là trò đùa hiểm ác của tạo hóa. Hai thằng con được che chở, được trợ giúp của địa vị và tiền tài, giờ đây lại đang hết mình phấn đấu vì chúng, bỏ quên người cha đang cô đơn, mòn mỏi ở quê nhà. Thằng Hồng, từ bé tới giờ không được sự chở che, giúp đỡ của địa vị, tiền tài thì hoang dại và thiệt thòi quá. Giờ bạn biết nó làm gì không? Nó là thằng chăn vịt. Thật đau lòng. Đúng là: không tiền, không địa vị thì khốn khổ. Lắm tiền, địa vị cao thì khốn nạn. Trở về cuộc sống thường dân, trở về với thiên nhiên tôi mới ngộ ra điều: cái gì mình cố giữ thì đều mất, cái gì mình cho đi thì lại còn. Giờ đây tôi chỉ còn thằng Hồng nhưng… 
*
Hai chiếc Dream phóng như bay như lướt trên đường. Vẫn con đường quen thuộc ấy nhưng sao hôm nay ông Dũng thấy lòng hồi hộp thế. Mọi lần ông chỉ dám cho xe chạy từ từ qua căn nhà cấp bốn Hồng ở là liếc vào để ngẩn ngơ. Lần này thì khác… ông sẽ bước vào nhà, sẽ trực tiếp chuyện trò với nó… Chỉ nghĩ thế thôi, lòng ông đã rối bời buồn vui lẫn lộn. Đến gần cổng làng, ông Dũng cho xe chạy thật chậm rồi chỉ tay ra một đầm nước nằm chếch sau làng, nói:
- Thỉnh thoảng thằng Hồng vẫn lùa đàn vịt của nó ra đó.
- Nó có biết anh không?
- Biết sao được. Anh vờ là người đi câu và thường ngồi dưới gốc vối kia ngắm nó.
Nói xong ông rồ xe chạy thẳng vào làng. Qua vài lần ngoặt trái ngoặt phải, ông Dũng dừng xe trước ngôi nhà ngói đỏ 3 gian, tường rào râm bụt và gọi:
- Có ai ở nhà không? – Giọng ông run run.
Có tiếng người đàn bà trong nhà vóng ra:
- Ai đới. Cổng mở đới. Cứ vào.
Dứt lời, người đàn bà trong nhà te te chạy ra mở cổng và hỏi:
- Ông bà hỏi ai?
Nhìn người đàn bà gầy guộc, lếch thếch, mắt mũi lèm nhèm, mặt mày dăn dúm, ông Dũng rơm rớm nước mắt với ý nghĩ: chị ấy cũng trạc tuổi mình mà sao chóng già, chóng cũ thế! Ông nói:
- Chị không nhận ra tôi sao?
Bà lão ngước cặp mắt lèm nhèm ngây ngây nhìn ông rồi bỗng reo lên:
- Thủ trưởng! Có phải thủ trưởng đới không?
Ông Dũng nhẹ cười, gật gật đầu xác nhận. Bà lão xởi lởi hẳn lên, nói như quát:
- Thủ trưởng và bà vào nhà xơi nước đi. Hồng ơi, có thủ trưởng và bà đây ở đơn vị mẹ mày lên chơi đây này.
Có tiếng chân huỳnh huỵch từ phía sau nhà… Tiếng bà lão:
- Dễ chừng cũng đến mấy chục năm rồi thủ trưởng nhẩy! À mà, thằng Hồng năm nay cũng gần ba mươi rồi. Đúng là bóng câu qua cửa sổ, thoắt cái đã gần ba mươi năm…
Hồng phủi qua áo quần rồi bước vào nhà. Yến giật mình nhìn Hồng. Đúng là, sao y bản chính, giống bố như lột. Rồi Yến chủ động nói:
- Thưa chị, mẹ đẻ cháu Hồng hiện nay lâm bệnh rất nặng, sự sống chỉ còn thoi thóp tính theo giờ. Một thân một mình thui thủi lúc lâm chung thì lạnh lẽo, thê thảm lắm. Chúng em mạnh dạn đến đây mong chị thông cảm cho cháu Hồng về thăm mẹ nó một lần, trước lúc mẹ nó đi xa…
Hồng cộc lốc cắt ngang lời Yến:
- Mẹ à! Cháu lại có một người mẹ nào nữa đây. Bác và cô nói xem, đây có phải là bố mẹ cháu không? Hồng vừa hỏi Yến vừa chỉ vào bà lão và bức ảnh ông lão đặt trên bàn thờ, rồi nói tiếp, giọng lạnh tanh:
- Đẻ con ra rồi, quẳng đi, có xứng là cha mẹ không? Đến con vật cũng không nỡ làm vậy, huống chi người.
- Hồng, không được hỗn – Bà lão cắt ngang lời Hồng rồi thủng thẳng nói tiếp - Có thương mày thì thủ trưởng với bà đây mới lần mò tới đây, không thì ai rỗi hơi. Công sinh thành to lắm con ạ. Không kém gì công dưỡng dục đâu. Thôi, vào buồng mà chuẩn bị các thứ để đi đi. Nghĩa tử là nghĩa tận.
Yến nói:
- Cháu Hồng nó không biết nên nói vậy. Nói chị tha lỗi, sau khi ra quân, mẹ cháu Hồng đã bỏ rất nhiều công sức và tiền của để đi tìm cháu nhưng… Địa chỉ chị cho sai cả thì làm sao mà tìm được.
- Sao mẹ lại làm thế? Hồng thảng thốt quay sang hỏi mẹ.
Bà lão vẫn thủng thẳng:
- Khổ! Tao biết đâu đấy! Thấy thủ trưởng đây dặn thế thì nói thế. Biết đầu cua tai nheo ra sao. Phải ông dặn tôi nói thế không, thủ trưởng nhẩy?
Hồng quay ngoắt về phía ông Dũng nói gay gắt:
- Sao ông lại làm vậy? Sao ông lại đang tâm lừa dối mẹ tôi? Đã dối trá đến thế còn mò đến đây giả nhân, giả nghĩa thật không thể hiểu nổi.
Thấy tình thế bất lợi Yến vội nói:
- Hồng! Bĩnh tĩnh lại cháu! Bình tĩnh nghe cô nói đây! Sự việc gì cũng có nguyên nhân của nó. Khi biết rõ nguyên nhân, ta mới có thể phán quyết đúng sai. Thời của các cô và mẹ cháu có những việc mới nghe qua tưởng như ngu ngơ, thậm chí như tàn nhẫn nhưng bình tâm, nghĩ kỹ, hiểu rõ nguyên nhân, có thể ta sẽ cảm thông, cảm thông đến đồng cảm. Dần dà rồi cô sẽ kể, kể hết cho cháu nghe về bố mẹ cháu. Cô tin, rồi cháu sẽ hiểu, sẽ thông cảm với họ. À mà, đến đó không biết chừng, cháu có thể gặp được cả bố đấy.
- Cháu chẳng hám! Một người chồng bỏ vợ, một người bố bỏ con có gì mà phải mong đợi… 
*       
Hai giờ chiều, hai chiếc xe máy từ từ leo lên sườn đồi bạt ngàn bạch đàn phía sau làng. Gió. Vi vút và hoang vắng. Hồng chạnh lòng nghĩ: Sao mẹ không ở trong làng, trong xóm cho vui lại lánh mình lên đây như ở ẩn? Gió. Vẫn vi vút gió. Trước mặt là một túp lều sơ sài, nhỏ bé. Xe vẫn đang từ từ đi, bỗng Yến kêu lên thảng thốt:
- Không kịp rồi!
Ba người dựng xe trước túp lều. Hồng đưa mắt nhìn quanh… Đơn côi… Heo hút… Lành lạnh. Một cây cau nhỏ xác xơ xòe vài tán lá úa vàng chơ vơ cạnh vại nước nhỏ. Nửa chậu sành nham nhở… Một chậu nhựa cũ… Và vài búi cỏ phạc phờ. Tiếng Yến:
- Hồng, cháu vào thắp cho mẹ nén nhang rồi ta ra nghĩa địa làng. Tấm ảnh trên ban thờ mẹ chụp hồi nhập ngũ đấy.
Hồng khom người bước vào ngôi nhà đầy mùi ẩm mốc. Anh run run cắm mấy nén nhang vì đăm đắm ngắm nhìn ảnh mẹ. Mẹ thật đẹp, những nét dịu dàng nhân hậu ngập tràn trên khuôn mặt trái xoan mịn màng, thanh thoát. Hình như từ hai khóe mắt đang ứa ra những giọt nước mắt long lanh, trong vắt. Đôi mắt mẹ quá buồn, có cái gì như mang mang vô định.
Hồng nhìn quanh nhà: chiếc chõng tre ọp ẹp, tấm chăn chiên cũ rích, chếc màn xô ngả màu, các hòm gỗ sơn đỏ và vài cái xoong nhôm nho nhỏ…
Gia sản của một đời người còn lại là thế này đây – Hồng nghĩ và rưng rưng nước mắt. Lại tiếng Yến:
- Hồng ơi, vái mẹ đi rồi ra nghĩa trang làng.
*
Hồng lểu thểu đi sau Yến đến nghĩa địa làng. Chiếu mới chớm vàng nên nắng còn gay gắt. Cánh đồng lúa mênh mông xanh rờn tiếng gió. Nghĩa địa làng mẹ đẹp quá. Nhiều ngôi mộ được xây rất kiểu cách với những vật liệu đắt tiền, với những sắc màu lòe loẹt. Tất cả cố khoe bầy sự làm ăn khấm khá, lòng hiếu thảo của con cháu người làng. Đứng trước mộ mẹ, lòng Hồng càng cay đắng, xót xa. Mẹ ơi, sao mẹ khổ thế: sống nghèo khó cô đơn nhất làng, chết cũng cô đơn, xơ xác nhất làng. Tiếng Yến nói trong nước mắt:
- Vân ơi! Sao mày đi vội thế! Không cố nán lại một chút để tận mắt thấy những người thân yêu nhất của mày đang quây quần quanh mày đây. Từ giờ mày không còn phải buồn sống không người thân, chết không người hương khói. Ở cõi âm mày không còn phải cô đơn, lang thang vơ vẩn chờ ngày xá tội vong nhân. Mày sống khôn chết thiêng, nếu biết, nếu vui thì hãy hiển linh báo cho tao và những người thân yêu nhất của mày biết, Vân nhé.

Yến vừa ngừng lời, bát nhang trên ngôi mộ bùng cháy. Ngọn lửa lóa vàng phần phật như reo vui, như vẫy gọi. Ông Dũng khẽ rùng mình. Tiếng Yến lại như rơi từ không trung:
- Anh Dũng và Hồng thấy chưa, Vân nó biết đấy, nó đang rất vui. Có lẽ đây là ngày vui nhất trong đời của mẹ cháu đấy Hồng ạ. Mẹ cháu vốn rụt rè, cả thẹn mà cháu xem, lửa bùng phần phật, lửa cháy hừng hực. Mẹ cháu hồi trẻ xinh đẹp, dịu dàng, chăm chỉ nhất làng. Cháu có quyền tự hào về mẹ. Bố cháu là một vị chỉ huy có tài, đẹp trai, học cao biết rộng. Họ ở cùng đơn vị với nhau rồi yêu nhau, có thai.
- Sao họ không cưới nhau? – Hồng hỏi.
- Cưới sao được. Lúc đó bố cháu đã có vợ ở quê. Người vợ của tệ tảo hôn ấy mà.
- Bố cháu là chỉ huy đơn vị, to thế, ai dám buộc họ phải cho con được.
- Chẳng ai bắt buộc ngoài tính hám danh, hám lợi của bố cháu…
- Mẹ cháu có biết việc làm của ông không?
- Lúc đầu thì không nhưng đến khi mẹ cháu dốc lòng đi tìm cháu, càng tìm càng biệt vô âm tín thì… biết.
- Chẳng lẽ bố cháu lại là người đê tiện đến thế ư?
- Ở thời mẹ cháu và các cô, ngoại tình là một tội nặng, chỉ xếp sau tội phản quốc. Vì nó người ta có thể mất sự nghiệp, thân bại danh liệt… nên chưa ai nỡ xếp bố cháu vào hàng đê tiện. Họ chỉ chê ông là kẻ tham lam ích kỷ. Mẹ cháu ốm sắp mất, đồng đội cũ cử cô đi tìm cháu là để thỏa lòng mong ước của mẹ… Không ai nghĩ tới việc tìm bố cháu đâu. Nhưng… vừa qua cô gặp bố cháu lại thấy thương . Ông ấy hiện nay có lẽ sống còn cô đơn hơn mẹ cháu. Địa vị cũ, quan niệm cũ đã đẩy cuộc sống của ông lâm vào tình trạng sống không có người thân, không có bạn bè, làng xóm. Nói dại, nếu ông có mệnh hệ gì thì cũng không ai biết, nói gì đến chuyện hương khói sau này. Nhưng cháu đừng quá buồn, vì hình như từ ngày không còn bị ràng buộc bởi chức tước, tiền tài, bố cháu sống tốt lên rất nhiều.
- Cô đoán, liệu bố cháu có đến đưa tang mẹ cháu không?
- Đến! Đến chứ!
- Giá cô cháu mình đến kịp thì…
- Ông ấy ở ngay đây thôi. Giờ cô đưa cháu đến gặp. Bố con có nhận nhau hay không thì tùy cháu.
*       
Chiều đã vàng, ba người rảo bước theo Yến về làng. Làng mẹ đẹp quá! Cổng làng cũng đẹp! Đình làng cũng đẹp! Ấn tượng của một làng quê trù phú hằn lên tâm thức, khơi dậy trong Hồng nỗi niềm bùi ngùi chua xót. Đầu óc Hồng ngổn ngang ý nghĩ: Ông ấy là người thế nào? Chắc cũng béo tốt như bác Dũng vì họ cũng là thủ trưởng cơ mà. Nhưng liệu ông có hiền hiền ít nói như bác Dũng không hay lại thao thao bất tuyệt? Gặp mình ông sẽ vui mừng vồ vập hay thờ ơ lãnh đạm?... Kiểu gì mình cũng chỉ nên dửng dưng, thờ ơ để ông hiểu rõ thái độ của mình, không chỉ là của mình mà còn cả thái độ của mẹ… Ba người dừng chân trước ngôi nhà hai tầng nhỏ nhắn, xinh xắn có cổng sắt, tường rào. Hồng hồi hộp hỏi:
- Nhà ai mà đẹp thế cô?
Yến vui vẻ nói:
- Nhà cô đấy. Chúng mình vào đi.
Nhà vắng lặng, không một bóng người. Nhấp chưa xong chén nước chè đặc sánh, nóng rẫy, Hồng bồn chồn nói:
- Vào thăm cô thế này là được rồi. Giờ trời đã tối, cô cho phép cháu được về nhà, còn việc gặp ông ấy để dịp khác, cô nhỉ.
Yến nháy mắt cười với ông Dũng rồi nhẹ nhàng nói:
- Thế cũng được. Nhưng trước khi về, em muốn khoe với anh và cháu một báu vật…
- Báu vật gì mà gớm thế! – Ông Dũng cố đùa trong trạng thái băn khoăn.
- Khắc đi thì khắc biết – Yến tủng tẳng.
Ông Dũng và Hồng miễn cưỡng đi theo Yến. Họ dừng chân trước một tấm gương lớn trong phòng ngủ. Hồng và ông Dũng đưa mắt nhìn nhau, ngơ ngác. Yến nói:
- Đây là một chiếc gương Nhật. Anh Dũng giúp em nói cho Hồng rõ đặc tính quý hiếm của chiếc gương. Còn Hồng, cháu cứ nhìn kỹ vào gương, cháu sẽ phát hiện ra bất ngờ lớn nhất trong đời cháu.
Dứt lời, Yến đi nhanh ra khỏi phòng và ý tứ khép chặt cửa. Nhưng chị không đi tiếp mà dừng lại, tập trung sức nghe dõi theo những biến động trong phòng. Những giây phút tĩnh lặng hồi hộp, chậm chạp trôi… Bỗng trong phòng òa lên những tiếng nấc. Những tiếng nấc của đàn ông nghe đau đớn, xót xa đến rợn người. Yến lập cập bước vội ra sân, vừa bước miệng vừa lập bập: “Nức nở là tốt rồi… nức nở là tốt rồi…!” Đêm ở làng tĩnh lặng đến hoang sơ… Những làn gió dịu dàng mơ hồ thổi… Những vòm cây khẽ rủ rỉ, xạc xào…
                                                                                               
                                                                                          Lê Mai

READ MORE - TÌM CHA TRONG GƯƠNG - Truyện ngắn của Lê Mai

ĂN TẾT HAI LẦN - Truyện ngắn của Thủy Điền



                      Tác giả Thủy Điền



       ĂN TẾT HAI LẦN

     Hélene vừa đi làm về, bước vào nhà. Quang đang ngồi trước máy vi tính, đứng dậy ôm hôn nàng và bảo:
- Hélene nầy! Bố anh vừa điện thoại khoảng 15 phút. Rằng 28 tháng giêng tới, ông muốn anh về ăn tết và có Hélene theo cùng. Hélene đi cùng anh chứ?
- Hélene ngỡ ngàng, Quang có nghe nhầm không? Mới ăn tết cách đây hai tuần, mà tết nhất cái gì nữa. Rồi nàng bỏ đi một hơi lên lầu, chẳng thèm nói tiếng thứ hai.
     Quang quê quá, ngồi xuống vò đầu, sao mình vội thế. Nàng mới đi làm về còn đang mệt, sao mình không để vài ngày nữa nói cũng chẳng muộn và lúc ấy nàng còn chịu khó ngồi nghe mình giải thích thêm về ngày tết Việt nam. Dốt thật.
     Quang quen Hélene cũng khá lâu và mới dọn về ở chung gần tám tháng nay. Thời gian quen nhau cho đến nay, mỗi khi đến ngày tết Nguyên đán là chàng về nhà một mình cùng gia đình ăn tết mà không bao giờ dẫn Hélene theo. Bởi, việc ăn uống của nàng rất khó khăn. Mang tiếng là người yêu một thanh niên Việt nam, nhưng chưa bao giờ nàng ăn một món gì của Việt nam cả. Mặc dù phở, hủ tiếu, chả giò, bánh xèo mẹ chàng hàng ngày hoặc các cửa tiệm nấu rất ngon. Một điều đặc biệt là mỗi khi ăn không được hay không vừa ý, nàng tỏ thái độ ra mặt nên Quang rất cẩn thận trước gia đình.
     Chiều nay cũng vừa đi làm về, trước Hélene một tiếng. Bố chàng gọi điện thoại bảo: Hai đứa 28 tháng giêng nầy phải về nhà ăn tết Việt nam cùng gia đình, vì ông thấy Quang và Hélene rất gắn bó, ông xem Hélene như con trong nhà, đồng thời ông cũng muốn nàng tập làm quen, hội nhập với cuộc sống của người Việt nam một ít. Khi ông nói xong, Quang cũng dè dặt trả lời những đặt tính riêng của nàng. Nhưng ông nhất quyết và chấp nhận tất cả mọi sự việc xảy ra. Ông bảo: Có thế người ta mới hội nhập với mình được chứ. Còn sợ…sợ, tránh né…tránh né mãi, biết bao giờ người ta mới gần mình được. Quang nghe ông nói, thấy có lý và hứa sẽ đưa Hélene về vào dịp tết Nguyên đán nầy.
     Khi buổi ăn tối vừa xong, cả hai rất thoải mái, vui vẻ. Quang hỏi Hélene? Chàng có thể lập lại câu chuyện hồi chiều không. Nàng bảo: Quang cứ tự nhiên. Quang thuật lại đại khái ý nghĩa ngày tết Nguyên đán mà chàng thường nghe bố, mẹ chàng kể trong những ngày đầu xuân và tại sao thời gian chênh lệch giữa ngày tết tây và tết ta một tháng và có khi nhuần là hai tháng. Nàng tay cầm ly nước cam, đầu gật gật và bảo:
- Vậy là 28 nầy em sẽ đi cùng anh thử một lần.
- Quang mừng quá, nhẩy ôm hôn nàng mấy phát.
     Qua cơn mừng ấy, bổng dưng chàng bắt đầu lo sợ. Tuy nàng nói thế, nhưng biết đâu đến nơi, giữa ngày tết đông người, nàng có những thái độ khó chịu thì trở tay không kịp.
     Cái gì rồi cũng đến, sáng 28 hai đứa dậy thật sớm và lái xe hơn 600 cây số để về đến nhà bố mẹ. Bước vào nhà mọi người mừng vui hớn hở, chào đón nhiệt liệt. Nhất là bố mẹ Quang rất quý Hélene, tuy chưa thành vợ chồng, nhưng ông bà cứ xem là con dâu út của mình. Người Việt nam nói riêng, người tây cũng thế hể quý, thương ai thì mời ăn, mời uống túi bụi, mời đến khi nào bụng khách đầy và ngại ngùng thì thôi. Trong lúc mọi người cúng vái, Hélene đi vòng vòng nhà, nàng nhìn cách trang trí ngày tết của người Việt nam, nàng bảo Quang nàng rất thích, nơi đâu cũng hiện lên những màu đỏ, vàng sặc sở tượng trưng cho sự may mắn và hạnh phúc rõ nét.
     Khi đã cúng ông bà xong là trời bắt đầu đứng bóng, ai ai cũng đều đói bụng. Nhất là Hélene. Bởi khi vừa bắt đầu vào tiệc, cái nào nàng cũng thử và thấy ngon miệng (Không biết ngon thật hay vì đói bụng mà thành ngon ) Nàng ăn thoải mái. Mọi người rất vui và ngạc nhiên những gì mà Quang đã từng kể trước đây.
     Ngày tết đã qua, trên đường về lại nhà. Nàng bảo Quang năm sau nàng sẽ về nhà bố mẹ ăn tết tiếp mà khỏi cần biểu, bảo vì cả. Nàng thật sự không ngờ ngày tết Việt nam thật là đúng nghĩa vô cùng và kể từ đó tuần nào nàng cũng bắt Quang đến cửa hàng thực phẩm Á-Đông để mua cho được những thứ mà nàng thích như: Chả giò làm sẵn, Vịt quây cùng các thứ khác về chỉ để tan đá là chiên, nướng lại là dùng ngay. 
     Sau ngày ấy chàng ngẫm ra câu nói của bố thật đúng và chí lý vô cùng,
   “ Có thử thì mới biết trắng, đen còn mập mờ làm sao biết đen hay trắng “.
                                                                               Thủy Điền
                                                                              12-01-2017

READ MORE - ĂN TẾT HAI LẦN - Truyện ngắn của Thủy Điền