Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Monday, July 17, 2017

LÀM VỢ THI SĨ - Trích hồi ký “về người cha thi sĩ” của Lâm Bích Thủy



                          Vợ chồng nhà thơ Yến Lan


           LÀM VỢ THI SĨ - 
    (Trích hồi ký “về người cha thi sĩ” của Lâm Bích Thủy)

Bây giờ; vợ chồng già xưng hô “anh, em” là lẽ thường. Còn thời cha mẹ tôi mà xưng hô như thế, nghe sao sao ấy. Lệ thường ba tôi cần gì chỉ gọi “má con Thủy ơi! hoặc má con Tú ơi! bà lại đây tôi nhờ tí.” Vậy mà lúc bước vào tuổi 50, ba tôi không sợ người cười, không khách sáo tí nào:  
  
Em có cháu gọi “ bà”                                  
Gọi “em” anh vẫn gọi          
Năm muơi tuổi ai già            
Chúng mình sao trẻ vậy...

Chúng tôi bắt gặp bài thơ, tranh nhau trêu mẹ “ba mình lãng mạn quá má hỉ”. Má tôi, lúc đó, như trẻ lại những mười tuổi. Bà lườm chúng tôi, bào chửa: “Hồi trẻ, khó khăn lắm ba mới lấy được má chứ bộ! Biết má lấy ba thiệt thòi, ổng làm thơ nịnh để bù đắp đó mà”. 
   
  Lấy nhau, cái khổ bắt đầu đeo bám đôi vợ chồng trẻ. Bốn con nhỏ ùn ùn kéo nhau ra. Làm gì để nuôi chúng? Ông nội mua cho ba ngôi nhà gần chợ, chính căn nhà số 57 Phố Quang Trung thị xã An Nhơn hiện nay, để má buôn bán kiếm tiền nuôi sống tổ ấm của mình

  Nhà văn Lamartine đã viết: “Đằng sau các công trình vĩ đại của các bậc vĩ nhân bao giờ cũng thấp thoáng hình bóng của một người đàn bà”. 
 Vâng, với ba tôi điều đó khá là chuẩn xác. Má tôi đã sẻ chia gánh nặng cuộc đời của ba tôi trên từng cây số. Nhất là trong cái nghề thi sĩ của ông. Bạn đồng  nghiệp khen thơ ba càng ngày càng khởi sắc, lay động được trái tim bạn đọc qua nhiều thế hệ.. Văn nghệ sĩ Bình Định cũng ví má tôi là “Bà Tú Xương phẩy” đó ! 

Ngoài tình yêu, má tôi còn rất mê cái danh “thi sĩ” của ba. Bà rất tự hào về điều đó, nên dù vất vả đến mấy bà cũng cam lòng, bà thích nhìn cảnh chồng ngồi viết lách. Những lúc như thế, bà cấm chúng tôi nô đùa gần chỗ ba làm việc. Bà ưu tiên cho ba: “Khi ba đang làm việc các con đừng nói to, để ba làm thơ cho hay nhé”. Tối thì giăng màn sẵn để xong việc ba chỉ có chui vào ngủ thôi. 
Có một bài hát tôi học lõm được của đĩa nhạc Hải ngoại Thúy Nga do ca sĩ Ái Vân thực hiện: Cả nhà đều làm thơ. Má tôi thích vô cùng, bà cứ nằng nặc bảo tôi hát đi hát lại cho bà nghe để thuộc và bì bõm tập hát theo; dù bà chưa bao giờ hát kiểu thanh nhạc ngoài hô lô tô hay bài chòi. Bà thích bài này vì nội dung rất giống cảnh nhà tôi, chỉ khác là ở bài có tám đứa con còn ba má tôi thì có 6 con:

Hôm qua em nằm mơ
Mẹ đem em gả chồng 
Cho một người thi sĩ
Dáng chàng rất long đong

Hai vợ chồng làm thơ

Trong một gian lều cỏ
Mái dột vẫn cứ dột
Làm thơ vẫn làm thơ

Thơ chàng dán trên bếp

Thơ em làm mái che
Một đàn con tám đứa 
Lớn lên cũng yêu thơ
……………………..

Tập kết ra ở Hà Nội, chiến tranh ác liệt, người người ra trận, trước hết là trách nhiệm “Tất cả vì Miền Nam ruột thịt, thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” Người ở lại, phải gánh thêm việc người đi. Cuộc sống lúc này lại càng thiếu thốn, khó khăn. Đặc biệt là CBCNV nhà nước. Công việc ở cơ quan nặng thêm “Mỗi người làm việc bằng hai”, tối về công việc nhà như núi chờ giải quyết. Những việc vụn vặt mà rất thực tiễn cho đời sống của gia đình. Qua đoạn nhật ký của nhà thơ Đào Xuân Qúi:

    Ngày 6/8/1972
“Sáng hôm nay Tế Hanh kể lại chuyện xếp hàng mua mì. Đến lượt Hanh vào cửa hàng chỉ còn lại 30 kg. Mừng quá Hanh nói: Mua được mấy chục cân mì mình về sướng tới ba ngày! Sướng hơn cả lúc làm được thơ”. Tiếp theo là chuyện xếp hàng mua mắm.  Số người xếp hàng dài quá, Tế Hanh đứng sau cùng, lo quá đã định bỏ về thì may sao có một chị phía trên cho chỗ. Mua được.
Thật đáng buồn! Mà đó là lớp người ít nhiều cũng được ưu đãi, còn những người bình thường thì còn khó khăn khổ cực đến đâu nữa…”

Ra Bắc và làm việc được 4 năm, vì sức khỏe hay ốm đau, lại rơi vào lúc phong trào Thi đua là yêu nước, cơ quan má sợ không đáp ứng đã yêu cầu bà về mất sức. Sống trong cảnh túng bấn, lại bị buộc về mất sức, bà buồn. Sợ má tôi buồn phiền đau yếu thêm nên ba an ủi: “Nhiều người còn khổ hơn mà vẫn sống được, mình cũng sẽ sống được thôi em. Nếu  khéo ăn thì no, khéo co thì ấm, em lo chi cho tổn thọ!”

 Được chồng tâm lý, an ủi má tôi vui vẻ chấp nhận để vượt mọi gian khó, liệu cơm gắp mắm trong số tiền lương ít ỏi của hai ông bà cộng lại. Bà khéo tính toán nên không thiếu trước, hụt sau như gia đình chú Quang Dũng. Để chi tiêu cho sinh hoạt hàng ngày, má căn cơ, dè xẻn, tiết kiệm, không dám mua thứ gì ngoài tiêu chuẩn tem phiếu.. !

  Đang tuổi ăn, tuổi diện song chúng tôi hiểu những khó khăn của cha mẹ, nên nhẫn nhịn; không đòi hỏi gì ngoài hai bữa cơm độn mì và mấy lạng thịt phiếu. 
  Bạn của tôi, đứa nào bố mẹ có chức, quyền tất nhiên khá hơn. Họ có mọi thứ; còn chị em tôi thiếu đủ thứ! Thấy bạn có xe đạp fa-vơ-rit của Tiệp đi học, có đồng hồ Slava của Liên Xô đeo tay; lâu lâu giơ lên xem giờ, như khoe với tôi, làm cho tôi càng khát khao thèm muốn; thầm ước; giá mình được sinh ra ở nhà bạn để được như bạn nhỉ...! Song, tôi tự an ủi “Mình cũng rất may,  trời không cho mình vật chất, bù lại mình có người cha rất tinh tế, chu toàn, rất mực yêu, chìu con. Ông cũng có thể cho chúng tôi nhiều như thế từ đôi bàn tay và sự cần mẫn của mình. Cây bút là nghề kiếm cơm, song đôi tay vàng của ông đã khỏa lấp cho các con mình bằng sự cần mẫn và sáng tạo. Nhờ đôi tay ấy mà sự thua thiệt của chị em tôi so với bạn bè vợi bớt đi ở thời bao cấp. 

  Tính ba lại tự trọng cao; trong công việc, trong sáng tác tôi chưa hề thấy ông phung phí thời gian để bon chen tìm cho mình địa vị, danh vọng. Ông nghèo, song không hèn. Mặc dù con số 37 là căn hộ gia đình tôi đang sống, họ bảo 3+7=10 là số bù.  Bù nghĩa là không có gì! 

  Ừ mà có lẽ vậy. Với vẻn vẹn 52đ lương ba, 37đ lương má, nuôi tới 7 miệng ăn (trừ tôi). Nhà chỉ rộng 35m2  cho gần tiểu đội. Mùa hè thì nóng hầm hập, mùa đông thì lạnh thấu tim.  May sao chú Nguyển Thành Long đến chơi  nhìn thấy cha con bạn thay nhau kéo chiếc quạt tự chế bằng miếng vải bạt do đại tá Niên biếu. Chạnh lòng, chú đem chiếc quạt tai voi nhỏ mà nhạc sĩ Bích Ngọc, chồng chị Trà Giang biếu cho. Má tôi quí chiếc quạt này lắm. Còn bàn, ghế chúng tôi ngồi học, là được đóng từ mấy chiếc thùng đựng táo của Trung Quốc, cơ quan má bán rẻ. Qua bàn tay ba mà có. Ngày tết, chiếc vại sành muối dưa của má, ba đem cọ rửa sạch, ra đầu phố nhặt viên gạch về mài lấy màu cam, đi mua phẩm màu xanh rồi bôi bôi, phết phết. Thế là chiếc lọ muối dưa của má đã biến thành lọ giả “cổ”. Xong hai vợ chồng già đi chợ Đồng Xuân mua cành đào về cắm.

  Tết đến, các chú, bác tới. Nhìn chiếc lọ có cành đào, ai  cũng tặc lưỡi khen: “đẹp quá! trông chẳng khác nào lọ cổ Yến Lan à.”   Và bài thơ “Xuân muộn” ra đời:

Vụng sắm, cành đào không kịp tết
Ra giêng chợt hé một vài bông
Xuân người lã tã bay đi hết
Ngoảnh lại xuân ta mới chớm hồng. 

 Trong thơ, ba tự nhận mình vụng về, một sự vụng về đáng yêu! Thực ra ba tôi đã mã hóa cái nghèo của mình rất văn học đó bạn ạ. Giàu có thì mua cành đào đẹp chơi Tết cho sang, mua chi cành rẻ tiền để xuân đến muộn! 

 ***
 Giải phóng ông bà trở lại quê, những năm đầu má tôi ít vất vả hơn vì cả ba má cùng chung tay xây đắp cho gia đình. Nhưng khi ba tôi bị U-nan tiền liệt tuyến, tay run không cầm được vật gì; nhất là không cầm được bút, má tôi lại an ủi ba:   
   - Ông lo gì, tay ông run đã có tay tôi đây.  
Thế là dù bệnh, không cầm được bút, ông đâu màng tới. Nằm trên gường, nghĩ ra được tứ thơ nào, ông gọi “Bà ơi, mau ra chép cho tôi, kẻo nó trôi mất”. Cứ như thế, ngày tháng qua, ý ông thông qua đôi tay gân guốc, nhăn nheo của bà, mà gần 500 bài thơ tứ tuyệt của ông đã đến được với bạn đọc, và được nhà thơ Trúc Thông đánh giá rằng :       
   “Trong số lưa thưa bậc hảo hán của thơ tứ tuyệt Việt Nam hiện đại, Yến Lan thuộc loại “bố già” Một “Bố già” hiền lành, không cân quắc, ngang tàng, vang động. Nhưng vẫn đầy cốt cách trong cung cách âm thầm:

Vì làm vợ thi sĩ, bà hiểu giá trị những gì chồng để lại đối với lịch sử văn học dân tộc ; chỉ sau vài tháng ông mất, bà tâm niệm viết cái gì đó về người chồng thi sĩ của mình. Lúc đó, chúng tôi đang bận việc, con nhỏ, và chưa một lần cầm bút, nên chịu thua. Thấy không nhờ được con, bà âm thầm vào Nam, ra Bắc, tìm gặp bạn của chồng, dò hỏi, tìm tư liệu rồi lần mò viết hồi ức.
   Cả chặng đường làm vợ thi sĩ, má tôi chỉ làm nội trợ trong gia đình. Vậy mà khi ba tôi đi xa ; bà bỗng như lột xác hẳn ; bà sốt sắn việc chữ nghĩa, viết lách mới lạ! Người ta không khỏi ngạc nhiên khi sự nghiệp thơ văn của ba tôi được chắp cánh, đến với bạn đọc bằng hồi ký “Yến Lan, nhớ mãi về anh”. Và lạ hơn nữa, qua hồi ký, bằng lời văn mộc mạc, lỗi chính tả, lỗi câu cú, nhưng người đọc vẫn nhận ra nhà thơ Yến Lan một đời thơ tận hiến, một đời sống chí tình. 
 Và “Phòng Lưu niệm Yến Lan”, với sự giúp đỡ của nhà văn Mang Viên Long được lập nên cùng lúc. Trong phòng lưu niệm, hiện lên tình người, sự sáng tạo và tinh thần hăng say lao động qua mọi góc nhìn từ hiện vật dù nhỏ đến lớn đều in rõ dấu ấn của ba tôi, được má tôi nâng niu, chăm chút giữ gìn như báu bật, 
  Những gì má tôi dành cho ba thể hiện tình yêu thương của  người vợ đồng cảm sâu sắc như một người bạn đối với một nghệ sĩ. Dường như điều đó là do sự gắn kết, xếp đặt của Trời để bù đắp, khỏa lấp những khoảng trống, sẻ chia vui buồn, ngọt ngào, cay đắng, phiền muộn. Tình yêu thương và sự tôn trọng lẫn nhau ngày càng sâu, rộng thêm ra. Bởi khi yêu ba, một thi sĩ nghèo, bà sẵn sàng chấp nhận những truân chuyên, nhọc nhằn của ông mà bà được dự báo trước khi lấy ông làm chồng. Bà từng chia sẻ với báo giới :

“Lấy anh Yến Lan tôi biết khổ thì rất khổ nhưng tôi không thấy buồn chán và hối tiếc; Tôi vẫn vui, vẫn yêu thương chồng, vẫn bằng lòng với cuộc sống vì chồng tôi hiền lành, thật thà, luôn dịu dàng và thương yêu vợ con” 
   Lại nữa, bà không dừng ở đó. Sau hồi ký, bà lại cặm cụi, dò dẫm leo lên 2 tầng gác cao, lật từng trang vở cũ, tìm những bài thơ chưa được đăng; để năm 2006, bà cho ra tiếp “Tuyển tập tứ tuyệt Yến Lan”. Tất cả tấm lòng bà dành cho ba tôi khiến giới văn nghệ sĩ phải thốt lên:
   “Yến Lan thật có phúc khi lấy được bà Lan”. 
   Đúng vậy, ba tôi cảm nhận được niềm hạnh phúc đó từ những cư xử đời thường ở người vợ tần tảo của mình:  

Em gọt khế cuối mùa 
Anh cắn từng lát nhỏ
Ôi, quả thường vị chua
Mà mọng nhiều thương nhớ

Tình yêu và sự tôn trọng của vợ dành cho, ba tôi lặng lẽ đáp lại cái nghĩa đó là:  

Bao bận anh lên đường, 
Ngày về thường trễ hẹn
Giữa lúc em dỗi hờn
Thư anh liền kịp đến…
Bao bận em se mình
Giành con, anh nấu cháo
Ôi đâu phải mùi hành
Mồ hôi em thấm áo…
(Khắng khít” - 1972)

Ông bà đã sống vì nhau, khắng khít bên nhau được 54 năm. Bài thơ là lời tâm sự chân thật tự đáy lòng ông; càng già tình càng nồng nàn, thắm thiết! Phải chăng đây là bức thông điệp mà ba tôi muốn gửi lại cho con cháu và bạn đọc thế hệ sau.   

                                                                  LÂM BÍCH THỦY

No comments: