Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Wednesday, May 3, 2017

TÌNH NGƯỜI TRÍ THỨC NGHÈO - Lâm Bích Thủy

                
                              Tác giả Lâm Bích Thủy



                     TÌNH NGƯỜI TRÍ THỨC NGHÈO
                     (Hồi ức về Nhà thơ Quang Dũng)

Trong cuộc đời làm nghệ thuật của ba tôi; tôi cảm nhận được cái chất người trong ông vô cùng thánh thiện vì biết cư xử và biết yêu thương. Dẫu trong sáng tác của mình, ông là người bị mất mát và bị thiệt thòi nhiều nhất; nhưng bù lại, ông có rất nhiều người bạn tốt. Trong những người bạn tốt của ông tôi luôn nhớ về chú Quang Dũng hơn cả. Nhớ về chú, tức là nhớ về cái tình ba tôi dành cho chú và ngược lại. Đó là tình cảm của những trí thức nghèo cùng bị hàm oan trong cái gọi là phản động ở thời Nhân Văn Giai phẩm. Tình bạn của họ trong thời gian này không có tiệc tùng bia rượu chỉ có tình người với những đồng lương ít ỏi mà vẫn biết sẻ chia cho nhau     
- Ra Bắc, những năm 55-70 của thế kỷ 20, nhà tôi ở 37 Hàng Quạt, Lần đầu gặp chú Quang Dũng, tôi hết sức kinh ngạc và tỏ ra lúng túng. Tôi thầm nghĩ:- “sao ba dám đưa người nước ngoài về nhà riêng?” Thời đó, nếu cán bộ nhà nước mà quan hệ mật thiết với người nước ngoài nhất là Tây mủi lỏ mắt xanh thì rầy rà lắm, bị hàng xóm dòm ngó, theo dõi và có khi cảnh sát khu vực đến thẩm tra. Ba tôi nhận ra vẻ lo lắng của tôi, ông phì cười “đây là chú Quang Dũng, không phải ông tây đâu mà con sợ”.

Thế rồi tôi nhìn dáng người cao, to chắc nịch, khỏe khoắn của chú mà phân bác vào loại hình “Thô săn”.  Dựa vào trực giác, tôi thấy bác có hệ thần kinh cân bằng tốt. Cử chỉ nhanh nhẹn, tính tình vui vẻ, chân thật không sáo rỗng lại và dễ gần. Không thấy dấu hiệu ức chế như chú Xuân  Diệu. Tóc chú có vài sợi bạc chen lẫn tóc đen như muối tiêu. Ánh mắt chứa chan tình cảm, màu xám tro. Nhìn kỹ thì chú giống tây Ấn Độ hơn tây Pháp.

Có điều gì đó, rất đặt biệt mà tôi cảm nhận được ở cái tình từ hai con người này dành cho nhau. Ba nói “bác Dũng tội lắm…” Chẳng thế mà có lần trên báo Tuổi Trẻ có tâm sự của ba về chú Quang Dũng: 
“Gia đình tôi rất  thân với anh Quang Dũng. Dũng người to lớn, trông như võ sĩ nhưng tính thì hiền, nghe chuyện buồn lại hay mau nước  mắt. Thời đó, mỗi  tháng cán bộ chỉ được mua 13 ký gạo, tôi và bà nhà tôi ăn ít, nên vừa đủ. Còn anh Quang Dũng to, khỏe, ăn nhiều, nên anh thường xuyên bị đói. Mỗi lần anh đến nhà chơi bà nhà tôi đều lặng lẽ đong cho anh túi gạo chừng dăm ba cân, để anh ăn, lần nào nhận gạo anh cũng khóc.”
Tôi còn biết hoàn cảnh nhà chú: Cũng như bao cán bộ khác ở Hà Nội thời chiến, song hoàn cảnh nhà chú khó khăn hơn, vì vợ là người dân tộc Tày, vụng việc nội trợ và tính toán, cái khổ càng kiên trì đeo bám vào tới tận ngóc ngách nhà chú. Thật trớ trêu, bác thì to lớn, con đông, thế mà hàng ngày chỉ chui ra chui vào ở căn phòng nhỏ, trên gác ba của ngôi nhà cuối phố Bà Triệu. Cầu thang lên xuống vốn đã hẹp mà còn đèo bồng đủ thứ linh tinh, nào chai lọ, rổ rá dọc lối lên xuống, nên việc đi lại rất rầy rà bức bách. Thế mà chú chăm lắm. Việc nước, việc nhà chú đều chu toàn: Được cái nhà gần công viên Thống nhất, ngoài giờ làm việc ở cơ quan, ngày hai buổi sáng, chiều chú tranh thủ ra đó quét lá về đun cho đỡ tốn tiền mua chất đốt. Tối về, chú bảo con sắp hàng lấy nước. Phải mất hàng giờ mới lấy được thùng nước đầy; khi con gọi, chú xuống lầu một, mỗi tay một thùng xách lên tới lầu ba nhà .
Tội lắm! Rãnh lúc nào chú lại xách cái túi bằng vải thừa đuôi thẹo, trong có cây bút chì và bút máy Trường sơn, có sổ công tác đã ghi chi chít chữ và dấu gạch bỏ lem nhem, đến với ba tôi để trao đổi. Ba tôi có thơ về bác:
Tàu điện xa dần phía chợ Mơ
Phòng văn được phút lặng không ngờ
Họa mi ai nhốt sau lồng trúc
Vọng tiếng rừng sang góp ý thơ
(Họa mi trong lồng- 10-1973)
Ba tôi không phải là họa sĩ nhưng ông biết nhận xét cái thần hồn của họa sĩ phả vào tranh. Thỉnh thoảng tôi nghe hai người vừa cười vừa khen bài thơ của ông này hay, bài thơ của chú kia có chỗ cần sửa lại vài từ. Chẳng là vì hai người làm chung phòng và cùng là biên tập... Đôi lần tôi nghe ba khen thơ chú Dũng có hình ảnh, có nhạc điệu, dung dị nhưng rất sâu đậm tình người. Thơ chú khiến người đọc nhìn được tâm can chú trong mỗi câu thơ viết ra. Thật vậy, có người nhận xét “Cái ông ấy, viết chữ nào ra chữ ấy. Nó như kẹo bột, như nước chè xanh, đố mà lẫn được!”.
 Đấy! chú Dũng là như thế. Chẳng ai lạ lẫm cái cơ cực mà chú đã nếm trải trong suốt mấy thập niên qua. Nhưng có lẽ chưa hoặc ít ai chứng kiến cái duyên hài ở chú. Thế mà tôi vô tình chứng kiến được. Lần nọ, tôi về thăm nhà, đúng lúc chú đến chơi. Vừa bước chân đến cửa chú vui vẻ khoe:
“Anh chị Lan biết không; tôi vừa được uống nước dừa mà không tốn một xu, thế có hay không chứ?” rồi chú cười hà hà kể lại:
“Thấy bà gánh dừa đi qua, tôi trêu: Trời ơi! Cau nhà bác trồng cách nào mà tốt trái vậy, bác đứng lại cho tôi hỏi thăm chút kinh nghiệm. Ở quê, nhà tôi cũng có vài cây mà quả chỉ bằng ngón chân cái của tôi thôi” Bà ta tưởng tôi là “Anh Pha mới lên tỉnh” nên chẳng phân biệt được cau hay dừa là phải; chứ ở Hà Nội thì có ai lạ gì thứ quả này, Bà đặt gánh xuống, thật thà phân giải “Thứ quả này không phải quả cau đâu bác ạ, nó là quả dừa từ Miền Nam mới đưa ra đấy!” Tôi quyết không chịu nghe:
“Quả này mà bác bảo không phải quả cau, bác chớ thấy tôi quê mùa mà phỉnh nha. Hay bác không muốn phổ biến kinh nghiệm, sợ người khác lấy cắp... ” Thế là tôi và bà bắt đầu cuộc cãi vả lý thú: “Cau, dừa; dừa, cau” Thấy tôi to lớn nhưng có vẻ  ngây ngô chẳng biết gì, bà ta tin tôi.  Cuối cùng để chứng minh mình đúng, bà đành hy sinh một qủa. Bà cúi nhặt lên một quả, lấy dao phạt miếng vỏ ở đầu; khối nước trong vắt lộ ra trông phát thèm. Bà vừa nói vừa ấn nó vào bụng bự của tôi:
 -  “Này! Uống đi cho biết thứ quả này. Người miền Nam gọi là quả dừa chứ không phài quả cau đâu mà bác cứ cãi mãi”. Rồi bà nhìn tôi không chút khách sáo thưởng thức hết khối nước trong ruột trái dừa với vẻ cảm thông về sự ngây ngô của anh Pha tôi, lần đầu lên tỉnh”

Chú Quang Dũng còn là người rất khiêm tốn học bạn. Tới nhà, thấy ba tôi khéo tay, tự làm mọi thứ bằng những nguyên liệu rẻ tiền mà trông sang và nghệ thuật. Chú đi ngang, đi dọc để ngắm cái kệ sách ba vừa làm bằng 5 cái porte- bagage xe đạp người ta bỏ và mấy miếng bìa cứng. Bác khen lấy khen để rồi xin tờ giấy vẽ lại kiểu, dáng. Nói với ba “về sẽ làm cho nhà một cái như thế”.  Không biết sau này chú có làm được gì từ việc học ở ba tôi hay không mà chăm lắm, cái gì cũng ghi ghi, chép chép đầy vào sổ công tác.

Mãi sau này, tôi mới được nghe má kể về bức tranh “Đường làng của chú tặng ba. Chẳng là thế này: Cuối năm 1957, khi ba tôi có món tiền nhuận bút là 80 đồng, vừa nhận được của tập thơ “Những ngọn đèn”. Không quên hoàn cảnh của bạn, ba tôi đã chia làm hai, cho chú Dũng một nửa là 40 đồng, dặn: 
- “Anh cầm về mà mua gạo cho trẻ, đừng để trẻ đói, tội!” 
Tuy thiếu thốn nhưng cầm tiền của người bạn mà hoàn cảnh không hơn mình là mấy, chú thấy khó xử, lưỡng lự mãi. Ba tiếp: “một miếng khi đói, bằng một gói khi no”. Anh cầm lấy, lúc nào có đưa lại cũng được mà, đừng khách sáo chi”. 
Cầm khoảng tiền lớn (bằng cả tháng lương hồi ấy), chú Dũng không nói được câu nào, chỉ nhìn ba tôi mà ứa nước mắt và từ biệt để đi mua gạo cho con.
Sau đó vài ngày, chú khệ nệ mang đến tặng ba bức tranh “Đường làng”. Có lẽ chú muốn  “Cục đất ném đi, cục chì ném lại” mới yên lòng hay sao ấy!
Sau 1975 ba tôi mang bức tranh về Nam, treo tại phòng khách. Bọn trẻ chúng tôi không am hiểu về lĩnh vực hội họa, càng không có thời gian để ngắm cái xa, cái gần của bức tranh. Vì lúc đó, cuộc sống còn nhiều thứ chi phối, lấy đâu thời gian đứng ngắm tranh, thành ra bài thơ “Cảm tác về một bức tranh treo ở nhà” làm chú Dũng buồn.
Treo lâu sơn thủy cảnh thu suông
Bụi bặm thời gian đã phủ dồn
Để đó vào ra không kẻ ngắm
Cất đi còn ngại mặt tường trơn
(8/1975)

Bài thơ ẩn chứa tâm trạng của người con xa quê lâu ngày trở về, qua nét thâm thúy ở sự hiểu biết về hội họa. Ông viết nó chỉ sau 2 tháng, khi đã thực hiện về ở hẳn tại quê nhà. Thời gian mới về, cảnh xưa người cũ không còn mấy! nhiều người lạ ở đâu về thay. Bao năm họ sống trong chế độ cũ chưa hòa nhập được với lối sống của chế độ xã hội chủ nghĩa, khiến tâm trạng ba buồn nhớ Hà Nội; nhớ các con đang sống ở ngôi nhà 37 Hàng Quạt, mà ở đó đã có những người bạn cùng cảnh ngộ, thường viếng thăm để chia sẻ buồn vui trong thời bao cấp. Còn bức tranh của chú Dũng; nếu ai có óc thẩm mỹ về hội họa thì nhận ra ngay cái tình của  tác giả qua một góc nhìn về cảnh làng quê ở nông thôn. Nhìn tranh ta thấy ở đó có cuộc sống thật êm đềm và thanh bình với gam màu nõn chuối. Có cánh đồng xanh xanh, con đường dẫn vào làng, xa xa lơ thơ một cây chuối, một bụi tre, một con bò ngẩn ngơ nhai lại. Tuy không thấy bóng người, nhưng nhận ra cuộc sống ở đây vẫn đang tiếp diễn. Càng nhìn càng thấy đam mê vẻ đẹp của làng quê mà chỉ có ở nông thôn Việt Nam mà thôi.

Vậy mà con ông, những người khách qua lại, ít ai để mắt tới! Họ chả hiểu gì về bức tranh quí mà ông cất công đem từ Hà Nội về!
 Tại thủ đô Hà Nội, đọc bài thơ đăng trên báo. Chú Quang Dũng giận lắm, đã tâm sự với bạn. Lời trách móc của chú đến tai ba tôi. Ông vội thư ra giải bày; rằng bây giờ, những người quanh ông ít nhận ra cái đẹp ẩn, thờ ơ với nghệ thuật, rằng họ chỉ chăm chăm kiếm tiền, lúc nào cũng chỉ tiền mà thôi!..

Qua thư, chú Dũng đã hiểu được cái tình rất nặng trong người bạn xưa. Bác thư vào xin lỗi: “Tôi mừng và hiểu anh, cho dù giờ đây cách núi, sông ngăn, nhưng tình anh đối với tôi vẫn tròn như xưa…”
  Lại mới đây, một người bạn của ba đột nhiên hỏi “Nhà con còn giữ bức tranh của ông Quang Dũng tặng không?” , “Dạ còn” Tôi hờ hững trả lời. Chú tiếp: “Cố mà giữ con ạ,! Nó quí lắm đấy! nó chứa cái tình của người nghệ sĩ dành cho nhau.” Tôi giật mình và nhận ra sự thiếu hiểu biết bấy lâu của mình. Tôi chưa hề để ý đến giá trị tư tưởng và nghệ thuật của bức tranh “Đường làng” trong khi người đời vẫn lưu tâm!

Giờ, nhớ tới chú Quang Dũng, tôi thấy tâm đắc vô cùng. Từ khi có nghị quyết V của Bộ chính trị về công tác văn học nghệ thuật thì cách nhìn đối với người đời về chú và ba tôi có khác thật đáng mừng. Các bạn trẻ đọc thơ chú nhận ra “Cảnh trong thơ Quang Dũng không phải là cảnh khô cứng, nó có sức sống cuồn cuộn ở bên trong”:  Đôi khi thơ ông làm chấn động đời sống tinh thần của tôi”...
 Và  bài “Tây tiến” đã một thời làm khổ chú lại được xếp vào 100 bài thơ hay nhất thế kỷ. Quê hương của chú đã rất tự hào về chú. Tại trường học thuở ấu thơ của chú, nhà trường đã dành nơi trang trọng nhất cho bức tượng bán thân của bác, nhà thơ “Tây tiến” -  Quang Dũng. Tất cả những điều người ta làm hình như để bù đắp lại khoảng trống mà lẽ ra chú đã được đong đầy trước đó vài thập kỷ kia! ./.
  
                                                                    Lâm Bích Thủy

No comments: