Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Saturday, May 20, 2017

NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA CỤM TỪ “THANH MAI TRÚC MÔ; DỊCH THƠ “TRƯỜNG CAN HÀNH” CỦA LÝ BẠCH - Ngô Văn Ánh



                Tác giả Ngô Văn Ánh


NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA CỤM TỪ “THANH MAI TRÚC MÔ; DỊCH THƠ “TRƯỜNG CAN HÀNH” CỦA LÝ BẠCH
                                         
     Là giáo viên đứng lớp giảng dạy hơn 35 năm với 3 môn tạm gọi là sở trường là Ngữ Văn, Lịch Sử và Địa lý thế mà chỉ một cụm từ thông dụng thường được nghe nói hằng ngày đến lúc sắp nghỉ hưu vẫn còn chưa biết! Dù rằng kiến thức nhân loại là vô tận, sự hiểu biết của mỗi người chỉ là hạt cát trong sa mạc mênh mông nhưng tôi vẫn thấy xấu hổ cho chính mình! Thành thật mà nói, cho đến bây giờ tôi mới hiểu được nghĩa và xuất xứ của cụm từ “Thanh mai trúc mã”. Thì ra “Thanh mai trúc mã” là một điển tích lấy từ trong bài thơ Trường Can Hành của thi tiên Lý Bạch đời nhà Đường bên Trung Quốc. Tôi xin chép ra đây bài thơ phiên âm Hán-Việt của Lý Bạch để chúng ta cùng thưởng lãm.

          TRƯỜNG CAN HÀNH
                          
          Thiếp phát sơ phú ngạch
          Chiết hoa môn tiền kịch
          Lang kỵ trúc mã lai
          Nhiễu sàng lộng thanh mai
          Đồng cư Trường Can lý
          Lưỡng tiểu vô hiềm sai.
          Thập tứ vi quân phụ
          Tu nhan vị thường khai
          Đê đầu hướng ám bích
          Thiên hoán bất nhất hồi.
          Thập ngũ thủy triển mi
          Nguyện đồng trần dữ hối
          Thường tồn bão trụ tín
          Khởi thướng Vọng phu đài.
          Thập lục quân viễn hành
          Cù Đường, Diễm Dự đôi
          Ngũ nguyệt bất khả xúc
          Viên thanh thiên thượng ai.
          Môn tiền trì hành tích
          Nhất nhất sinh lục đài
          Đài thâm bất năng tảo
          Lạc diệp thu phong tảo.
          Bát nguyệt hồ điệp hoàng
          Song phi tây viên thảo
          Cảm thử thương thiếp tâm
          Tọa sầu hồng nhan lão.
          Tảo vãn há Tam Ba
          Dự tương như báo gia
          Tương nghênh bất đạo viễn
          Trực chí Trường Phong Sa.

                                     Lý Bạch

       Đây là bài thơ ngũ ngôn theo thể Cổ Phong (thể thơ cổ có trước thể thơ Đường) làm theo điệu hát dân gian của người Trung Quốc xưa ( Như ở Việt Nam ta có đồng dao, dân ca…). Bài Trường Can hành kể về cuộc tình của đôi trai gái ở xóm Trường Can. Tạm dịch như sau: Thời nhỏ đôi trẻ chơi thân với nhau rất hồn nhiên. Năm cô gái 14 tuổi thì họ thành vợ chồng.  Lúc về làm vợ, cô gái còn xấu hổ thường quay mặt vào tường. Mười lăm tuổi, cô gái bắt đầu lộ vẻ tươi vui. Họ cùng thề nguyền sống với nhau trọn đời dù gặp phải nghèo khó. Hứa sẽ như chàng Vỹ mãi ôm chân cầu (Vỹ Sinh giữ chữ tín cứ ngồi ôm chân cầu chờ đợi cho đến khi nước ngập mà chết) và sẽ làm người Vọng phu đứng trông chồng. Mười sáu tuổi họ xa nhau vì chồng phải đến tận chốn xa xôi. Tháng Năm nước lớn không thể đến với chồng được, Tiếng vượn kêu thảm thiết  vang vọng trời xanh. Trước sân nhà còn in dấu chân người xưa đã phủ đầy rêu xanh. Rêu dày không thể quét sạch hết được. Gió thu thổi sớm làm lá rụng nhiều. Tháng Tám, từng đôi bướm vàng bay lượn  ở thảm cỏ phía tây khu vườn. Nhìn cảnh ấy nàng thấy xót xa cho mình. Ngồi buồn vì tuổi xuân ngày càng phai tàn. Đến Tam Ba dù sớm hay muộn,  chàng nhớ gửi thư báo về cho gia đình biết. Nàng sẽ đi thẳng đến Trường Phong Sa đón chàng dù cho đường sá có xa xôi.
     Trong bài thơ có chi tiết  chàng (lúc nhỏ) lấy cành trúc làm ngựa  đến chạy quanh ghế nàng ngồi và ném những quả mơ xanh để chơi đùa (khi nàng đang hái hoa chơi trước sân). Sau này người ta dùng cụm từ “ Thanh mai trúc mã” để chỉ về đôi trai gái trời sinh có duyên nợ xứng đôi vừa lứa từ nhỏ.
        Tôi xin mạo muội dịch bài Trường Can Hành của Thi tiên Lý Bạch ra 3 thể thơ khác nhau là Ngũ ngôn, Lục bát và Song thất lục bát. Mong các bạn góp ý giúp đỡ..

     TRƯỜNG CAN HÀNH
       (Dịch thơ ngũ ngôn)

    Tóc nàng xõa chấm trán
    Trước sân hái hoa chơi
    Ngựa trúc chàng chạy tới
    Mơ xanh đùa ghế ngồi.
    Cùng ở xóm Trường Can
    Đôi trẻ còn trong sáng.
    Mười bốn thành vợ chồng
    Nàng xấu hổ thẹn thùng
    Quay mặt vào vách tối
    Mặc cho chàng vẫy gọi.
    Mười lăm mày ngài nở
    Thề cùng dù nghèo đói
    Ôm trụ giữ niềm tin
    Lên Vọng phu chờ đợi.
    Mười sáu chàng đi xa
    Chốn Diễm Dự, Cù Đường
    Tháng năm thuyền khó đến
    Vượn hú vọng bi thương.
    Dấu chân xưa còn đó
    Khắp lối phủ rêu xanh
    Rêu dày khó xóa sạch
    Gió thu lá tan tành.
    Tháng tám bươm bướm vàng
    Vườn tây từng đôi múa
    Thấy cảnh thiếp đau lòng
    Ngồi buồn hồng nhan úa.
    Về Tam Ba sớm muộn
    Chàng nhớ gởi thư nhà
    Dù xa xôi vẫn đón
    Thiếp tới Trường Phong Sa.

                       Ngô Văn Ánh


      TRƯỜNG CAN HÀNH 
           (Dịch thơ lục bát)

      Tóc em chấm trán xõa dài
Hái hoa trước cửa nắng mai vui đùa
      Ngựa trúc chàng đến bất ngờ
Vờn quanh ghế nhỏ ném đùa mơ xanh
      Trường Can xóm nhỏ yên bình
Ngây thơ hai trẻ vô tình hồn nhiên
      Tơ hồng, Nguyệt lão xe duyên
Tròn mười bồn tuổi đã nên vợ chồng
      Em còn xấu hổ, thẹn thùng
Quay vào vách tối mặc chồng gọi kêu.
      Mười lăm mày phượng mỹ miều
Nguyện dù nghèo khổ vẫn yêu trọn đời
      Một lòng ôm trụ giữ lời
Xin lên núi đá làm người vọng phu.
      Mười sáu xa cách tuyệt mù
Cù Đường, Diễm Dự biên khu việc chàng
      Tháng năm nước lớn khó sang
Vượn kêu ai oán đại ngàn vọng ra
      Dấu chân còn trước sân nhà
Bóng xưa phủ kín nhạt nhòa rêu xanh
      Quét rêu xóa hết sao đành
Gió thu thổi sớm tan tành lá rơi
      Bướm vàng tháng tám rợp trời
Từng đôi bay lượn chẳng rời vườn tây
      Cảnh như xé nát lòng nầy
Ngồi buồn gặm nhấm hao gầy tuổi xuân.
      Tam Ba về tới, phu quân
Phong thư xin báo tin mừng nhà hay
      Đường xa em cũng đi ngay
Trường Phong thẳng đến vui say đón chàng.

                                          Ngô Văn Ánh


           TRƯỜNG CAN HÀNH  
         (Dịch thơ song thất lục bát)

      Thuở ấu thơ tóc còn xõa trán
     Thiếp hái hoa nắng sớm trước sân
         Ngựa trúc, chàng phóng lại gần
  Đùa quanh ghế nhỏ ném chùm mơ xanh.
     Xóm Trường Can, yến oanh đôi trẻ
     Cùng thơ ngây có ngại ngùng chi
       Thiếp vừa mười bốn xuân thì
   Nên duyên chồng vợ biết gì phu thê.
      Thiếp xấu hổ, đêm về chung bóng
     Ngoãnh vào tường lóng ngóng làm ngơ
       Mặc cho chàng mãi gọi chờ
   Rèm mi run rẩy, hững hờ bờ vai. 
     Mười lăm tuổi, mày ngài  mắt phượng
     Nghĩa tào khang càng đượm càng sâu
       Nguyện cùng trọn kiếp ôm cầu
  Vọng phu núi đá dãi dầu cũng cam.
     Mười sáu tuổi, li tan đôi ngã
     Chốn biên khu vất vả riêng chàng
       Cù Đường, Diễm Dự quan san
   Tháng Năm, sông lớn nước tràn khó qua.
       Não trời xanh, xót xa vượn hú
     Trước hiên nhà xanh phủ đầy rêu
        Dấu xưa phai nhạt ít nhiều
   Ngậm ngùi cảnh cũ, phòng tiêu lạnh lùng.
      Tháng Tám sớm, thu phong lá đỏ
     Lũ bướm vàng vờn ngõ vườn tây
        Từng đôi bay lượn sum vầy
   Tủi thân thiếp sợ hao gầy tuổi xuân. 
      Đến Tam Ba, phu quân chàng hỡi
     Cánh nhạn hồng xin gởi nhà hay
         Dù xa, thiếp cũng đi ngay
   Trường Sa thẳng tới mừng ngày đoàn viên.

                                             Ngô Văn Ánh

No comments: