Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Saturday, March 25, 2017

ĐỌC "BẢY MƯƠI HÀNH", THƠ HẠ THÁI TRẦN QUỐC PHIỆT - Châu Thạch


     
Châu Thạch



  ĐỌC "BẢY MƯƠI HÀNH", 
                                       THƠ HẠ THÁI TRẦN QUỐC PHIỆT 

“Hành” là một thể loại thơ không phổ thông lắm, nhưng nó từng giữ một vị trí đáng kể trong lịch sử thi ca Việt Nam. Một bài thơ ở thể “Hành” thường đề cập đến những sự việc với tâm trạng bức xúc. Nếu so sánh “Hành” với những thể thơ khác ở giai đoạn thơ mới (Thập niên 1930 đến nay) thì thể “Hành” không được sáng tác nhiều. Tuy thế dầu ít, “Hành” cũng có được ngôi vị trân trọng trong nền văn học giai đoạn nầy. Cụ thể là “Tống Biệt hành” của Thâm Tâm, “Hành Phương Nam” của Nguyễn Bính và một số bài thơ thể “Hành” ít nổi tiếng hơn. 
Gần đây bài “Bảy Mươi Hành” của nhà thơ Hạ Thái Trần Quốc Phiệt cũng khẳng định được thể thơ “Hành” có một chổ đứng vững vàng trên diễn đàn thi ca.
Đọc cái tựa đề “Bảy Mươi Hành”, chắc ai cũng phỏng đoán được đó là một bài thơ nói về tuổi “Thất thập cổ lai hy”. Vì bài thơ dài, người viết xin lần lượt giới thiệu từng vế thơ kèm theo lời bình của mình, hầu làm ngắn bớt bài viết, tránh đi sự nhàm chán cho bạn đọc khi phải đọc thơ trước rồi lại đọc thơ lần nữa trong lời bình.
Đúng trình tự như một bài luận văn, tác giả bài thơ nhập đề bằng sự giới thiêu tuổi tác của mình:

Nhịp gõ thời gian điểm bảy mươi!
"Nhân sinh thất thập" đến đây rồi
Giẫm lên lằn mức người xưa hiếm
Mà ngỡ như còn giữa cuộc chơi.

Khác với nhiều ông già, nhà thơ Hạ Thái Trần Quốc Phiệt đã giẫm lên tuổi thất thập nhưng vẫn tưởng như mình mới đi nửa cuộc đời. Căn cứ vào những khổ thơ sau ta thấy câu thơ “Mà ngỡ như mình nửa cuộc chơi” không phải nhà thơ thấy mình còn trẻ mà thấy mình chưa làm được gì đã vội già.
Qua khổ thơ thứ hai ta thấy nhà thơ ăn chơi thanh nhã nhưng tâm trạng bi quan đã hé lộ ra rồi:

Thỉnh thơ vào án văn đề bút
Gom nắng chiều thương rũ bóng đời
Hiu hắt tà dương rơi cuối ngõ
Chập chờn cánh nhạn lạc xa xôi

Hai câu thơ cuối là hình ảnh của một thi nhân ngồi ở chốn cô liêu mà vọng nhớ một chân trời xa xôi nào đó. “Cánh nhạn” ở đây thể hiện linh hồn của tác giả mà cánh nhạn “chập chờn” thì có thể hiểu rằng linh hồn đó trong mơ đang bay về quá khứ.
Nhà thơ bắt đầu thổ lộ tâm sự của mình ở khổ thơ thứ ba:

Cầm bằng bảy chục an nhiên vậy
Sinh bất phùng thời chịu nổi trôi
Nửa chặng phong trần bao nghiệt ngã
Xoáy theo cơn lốc tả tơi đời!

Bây giờ mới là nỗi đau thời đại. Bây giờ mới phát ra tiếng rên rỉ của một kiếp người đại diện cho hàng triệu kiếp người. Đọc đến đây những ai từng sống qua ba thời đại, thời Pháp thuộc, thời nội chiến, thời non sông liền một dải sẽ thấy lòng mình cũng quặn lên một nỗi đau, nỗi đau của “phong trần nghiệt ngã”, nổi đau của “cơn lốc tả tơi” và nổi đau “sinh bất phùng thời” co thắt con tim ta. Tại sao tác giả lại nói “Cầm bằng” trong câu thơ “Cầm bằng bảy chục an nhiên vậy”? Vì tác giả muốn tự xem mình đến tuổi thất thập thì như người xưa đã nói “Thất thập nhi tòng tâm sử dục, bất du cửu”, tạm giải thích là đến tuổi 70 thì tâm linh và đạo hợp nhất, con người an nhiên hòa cùng vô vi trời đất. Sự thật: Tác giả dùng chữ “cầm bằng” cho ta thấy không bao giờ ông đạt được cảnh giới đó, bởi quá khứ làm thành những vết thương không bao giờ lành được trong lòng.
Ở vế thơ kế tiếp tác giả cho ta thấy tâm trạng nhà thơ biến chuyển từ lạc quan đến bi quan:

Lưới trời giăng mắc đan huyền ảo
Trũng thấp đồi cao những chập chùng
Đành chấp nhận băng truông vượt suối
Không dè, hoài bão hóa mông lung

Ở tuổi trai trẻ nhà thơ đạp lên định mệnh, vượt qua “Trũng thấp đồi cao” chính là cái “Lưới trời giăng mắc”. Ông chấp nhận “băng truông vượt suối” vì lý tưởng của mình. Đến tuổi già nhà thơ mới chiêm nghiệm ra “Không dè, hoài bão hóa mông lung”. Bốn câu thơ đọc nhẹ như những chiếc lá bay nhưng đặt vào lòng ta khối sầu “ bấc đắc chí” của một đời người nặng nề còn hơn bao ngọn núi.
Thế rồi nhà thơ đem mình so sánh với Kiều:
 

Như thể đoạn trường đeo bổn mạng
Phải thân Kiều gãy khúc đa đoan
Tiền Đường nào tưởng đời quên lẵng
Mảng lưới ngư ông quẳng giải oan

Gởi chốn xa xăm nơi ẩn dấu
Thâm sơn cùng cốc mười năm trường
Bước ra ngoái mặt mình trong kiếng
Nhăn nhúm da nhèo tóc điểm sương

Kiều 15 năm truân chuyên, sau khi nhảy xuống sông Tiền Đường được ngư ông vớt lên thì đến ngày đoàn tụ. Nhà thơ Hạ Thái Trần Quốc Phiệt không biết truân chuyên bao nhiêu năm, sau đó lại phải “Thâm sơn cùng cốc mười năm trường”. Đem sự truân chuyên của mình tá khách vào Kiều, nhà thơ gián tiếp bộc lộ nỗi oan của mình trong cuộc sống. Thật ra bao nhiêu chàng trai cùng thời đại với nhà thơ phải ra chiến trận đều chịu nỗi oan uổng chẳng khác chi Kiều bán mình chuộc cha cả. “Bán mình” là hy sinh tuổi trẻ, “chuộc cha” là chuộc cho nền tự do đất nước trong cuộc tương tàn phi lý. Hai khổ thơ nầy nhà thơ nói hộ cho những chàng trai thời đó.
Bốn khổ thơ kế tiếp nhà thơ tỉ tê tâm sự, tỏ bày biết bao uẩn khúc trong lòng. Đoạn “Hành” nầy như một khúc trường ca bi hùng, khơi gợi niềm đau của người trong cuộc, kể cho người ngoài cuộc đồng cảm với thăng trầm của thế hệ:

Mắt mỏi mòn trông vời cố quận
Lòng mơ khắc khoải mộng tơ vương
Riêng niềm hoài vọng hồn du tử
Liễu lạnh trăng chìm rũ bến sương.

Cố hữu bạt phiêu khắp vạn nẻo
Từ ngày lửa xám mặt quê hương
Rẫy nương ẩn náu đời lưu xứ
Chữ nghĩa ích gì buổi nhiễu nhương!

Chiến hữu bao năm cùng tuyến trận
Sát kề vai giải gió dầm sương
Nung lời thề một lòng son sắt
Phút chốc tan đàn, ngựa lỏng cương!

Cùng cảnh truân chiên thuở đọa đày
Đồng cam cộng khổ sớt chua cay
Ngược xuôi luân chuyển vòng đây đó
Rải rác trăm phương chịu lạc bầy!

Rồi thì tác giả không quên đề cập sơ qua đến cuộc sống về già, cuộc sống hiện nay:

Bạn từng hòa vận xa xôi cả
Lời vọng băng ngàn khó ới nhau
Viết một vần thơ trăm nỗi nhớ
Đọc dăm cuốn sách vạn niềm đau!

Bạn xưa thì tản lạc vì thời cuộc, bạn nay thì ở bốn phương trời. Sự cô đơn đè nặng trên tuổi thất thập cổ lai hy. “Viết một vần thơ trăm nỗi nhớ” là nhớ quá khứ và nhớ ngay cả trong hiện tại. “ Đọc dăm cuốn sách vạn niềm đau” là đau cho quá khứ, đau trong hiện tại và đau cả tương lai mịt mờ không biết về đâu. Hai câu thơ đầu như hai con suối lạnh, hai câu thơ sau như suối biến thành sông băng giá. Cả khổ thơ nếu nói không quá thì cho ta liên nghĩ đến tâm sự những nhà yêu nước bị  lưu đày thuở trước. Ngày nay không phải một vài người bị lưu đày như ngày ấy mà hàng triệu người đang bị lưu đày trong đó có nhà thơ. 
Trong cảnh cảnh cô đơn, nhà thơ đâm ra bi quan:

Gẫm lại cõi trần là giấc ngủ
Gốc hòe tỉnh dậy mộng bay xa
Xưa nay nhân thế toàn hư ảo
Không, sắc... kề nhau quả thật là!

Giữa có và không nguyên một lẽ
Có rồi không chung gốc liền vòng
Nửa trang đời vào sinh ra tử
Buổi trói tay cam chịu khóa còng.

Không chỉ “Thâm sơn cùng cốc mười năm trường” mới gọi là “Buổi trói tay cam chịu khoá còng”. Tác giả đã bị khoá còng từ ngày ấy đến nay vì những hệ luỵ tiếp theo những ngày tù tội. Ở tuổi 70 ông càng trăn trở nhiều hơn, thao thức nhiều hơn và cảm nhận nhiều hơn nỗi đau của chiếc còng khóa trên tay không mở được cho đến cuối cuộc đời:

Bảy mươi mời rượu cùng ai nhỉ
Nhìn lại quanh đây chỉ một mình
Giáo dựng gươm treo ngoài ải vắng
Hương trầm xin bái vọng vong linh

Sinh nhật bảy mươi không yến tiệc
Trong vườn khuya khoắt đếm sao rơi
Ngâm thơ huyễn mộng thay lời tiễn
Hồn lạc phiêu diêu cuối nẻo trời

Ở hai khổ áp chót của “Bảy Mươi Hành” tác giả gởi cho đời một triết lý sống:

Người chúc tâng nhau lên bậc lão
Ta cầu trăng rọi suốt thiên thu
Cồn xưa dấu tích gò cương ngựa
Tiễn mộng xa xăm cõi mịt mù

Chẳng ước mơ gì câu bách tuế
Phương này vị đắng vốn triền miên
Rong rêu bám víu bờ nhân thế
Ba chục năm thêm… bấy muộn phiền!

Tuy phải nhận nhiều vết thương tinh thần, tác giả vẫn áp dụng triết lý của thánh hiền trong cuộc sống “bất phùng thời” của mình. Con người ai cũng thích sống trăm năm, nhưng bậc thánh hiền không cần sống thọ, mà cần cái nhân cách sống như “trăng rọi suốt thiên thu”. Hai vế thơ gợi cho ta hình ảnh người kỵ sĩ buông cương, ẩn danh để nhấm vị đắng nhưng cái chí khí ngất trời hạo nhiên trường tồn mãi mãi.
Cuối cùng nhà thơ độc ẩm giữa đêm trăng trong ngày sinh nhật để thấy hồn mình hay nước mắt mình đẩm trên trang giấy thành thơ:

Đốt nến lên ngâm thơ lạc vận
Hồ trường nghiêng cạn giữa đêm trăng
Mảnh hồn tản mạn loang trên giấy
Sinh nhật ta tròn bảy chục năm.

Khổ thơ cuối cùng của “Hành” giống như câu thơ “Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi” của Kiều ở “Lầu Ngưng Bích khoá xuân”. Đây là cái giây phút mà nỗi đau như một cái đinh ốc cứ xoắn, cứ xoắn và lên đến đỉnh nhọn. Nếu nhà thơ không ngất đi ở đây thì cũng buông tay cho “lửa tắt bình khô rượu” để dòng lệ rơi hay nuốt ngược vào lòng.
Nếu đọc “Hành” cúa Thâm Tâm và Nguyễn Bính viết theo lối thất ngôn phá thể, ta có thể kết luận “Hành” là đi. Với Thâm Tâm “Hành” là “đưa người”, với Nguyễn Bính “Hành” là “lưu lạc”. Thể thơ “Hành” còn là thể thơ dùng để viết cho sự phân ly, trực tiếp hay gián tiếp nói cho mình hay đối tượng nào đó về sự chia tay hay sự trôi nổi giữa cuộc đời. Gần đây cũng có tác giả dùng “Hành” để nói về cuộc sống lưu vong.
“Hành” của Hạ Thái Trần Quốc Phiệt viết rất công phu, phản phất chất cổ điển, theo thể thất ngôn trường thiên đúng luật từ đầu đến cuối, là một bài có nội dung tổng hợp của “Hành”, trong đó ông tự thán ở tuổi 70 và gởi vào đó tâm sự mình, gián tiếp phản ánh nỗi đau thời đại mà mình đã sống. Bài thơ dài nhưng cuốn hút, với tiếng thơ như tiếng từng con sóng quyện nhau nối tiếp vào bờ, với ý thơ tiềm ẩn những suy nghiệm sâu xa và với nhiều tứ thơ bác học, tác giả đặt người đọc, nhất là người lớn tuổi đồng cảm, thổn thức với những thăng trầm đã qua và hiện nay chất chứa trong thơ. “Bảy Mươi Hành” của hạ Thái Trần Quốc Phiệt thêm một lần nữa làm nổi bật ưu điểm của thể thơ “Hành”./. 

                                                                                     Châu Thạch


                    Hạ Thái Trần Quốc Phiệt
             

BẢY MƯƠI HÀNH

Nhịp gõ thời gian điểm bảy mươi!
"Nhân sinh thất thập" đến đây rồi
Giẫm lên lằn mức người xưa hiếm
Mà ngỡ như còn giữa cuộc chơi.

Thỉnh thơ vào án văn đề bút
Gom nắng chiều thương rũ bóng đời
Hiu hắt tà dương rơi cuối ngõ
Chập chờn cánh nhạn lạc xa xôi

*
Cầm bằng bảy chục an nhiên vậy
Sinh bất phùng thời chịu nổi trôi
Nửa chặng phong trần bao nghiệt ngã
Xoáy theo cơn lốc tả tơi đời!

Lưới trời giăng mắc đan huyền ảo
Trũng thấp đồi cao những chập chùng
Đành chấp nhận băng truông vượt suối
Không dè, hoài bão hóa mông lung

*
Như thể đoạn trường đeo bổn mạng
Phải thân Kiều gãy khúc đa đoan
Tiền Đường nào tưởng đời quên lẵng
Mảng lưới ngư ông quẳng giải oan

Gởi chốn xa xăm nơi ẩn dấu
Thâm sơn cùng cốc mười năm trường
Bước ra ngoái mặt mình trong kiếng
Nhăn nhúm da nhèo tóc điểm sương

Mắt mỏi mòn trông vời cố quận
Lòng mơ khắc khoải mộng tơ vương
Riêng niềm hoài vọng hồn du tử
Liễu lạnh trăng chìm rũ bến sương.
*
Cố hữu bạt phiêu khắp vạn nẻo
Từ ngày lửa xám mặt quê hương
Rẫy nương ẩn náu đời lưu xứ
Chữ nghĩa ích gì buổi nhiễu nhương!

Chiến hữu bao năm cùng tuyến trận
Sát kề vai giải gió dầm sương
Nung lời thề một lòng son sắt
Phút chốc tan đàn, ngựa lỏng cương!

Cùng cảnh truân chiên thuở đọa đày
Đồng cam cộng khổ sớt chua cay
Ngược xuôi luân chuyển vòng đây đó
Rải rác trăm phương chịu lạc bầy!

Bạn từng hòa vận xa xôi cả
Lời vọng băng ngàn khó ới nhau
Viết một vần thơ trăm nỗi nhớ
Đọc dăm cuốn sách vạn niềm đau!

Gẫm lại cõi trần là giấc ngủ
Gốc hòe tỉnh dậy mộng bay xa
Xưa nay nhân thế toàn hư ảo
Không, sắc... kề nhau quả thật là!

Giữa có và không nguyên một lẽ
Có rồi không chung gốc liền vòng
Nửa trang đời vào sinh ra tử
Buổi trói tay cam chịu khóa còng.

Bảy mươi mời rượu cùng ai nhỉ
Nhìn lại quanh đây chỉ một mình
Giáo dựng gươm treo ngoài ải vắng
Hương trầm xin bái vọng vong linh

Sinh nhật bảy mươi không yến tiệc
Trong vườn khuya khoắt đếm sao rơi
Ngâm thơ huyễn mộng thay lời tiễn
Hồn lạc phiêu diêu cuối nẻo trời

*
Người chúc tâng nhau lên bậc lão
Ta cầu trăng rọi suốt thiên thu
Cồn xưa dấu tích gò cương ngựa
Tiễn mộng xa xăm cõi mịt mù

Chẳng ước mơ gì câu bách tuế
Phương này vị đắng vốn triền miên
Rong rêu bám víu bờ nhân thế
Ba chục năm thêm… bấy muộn phiền!

*
Đốt nến lên ngâm thơ lạc vận
Hồ trường nghiêng cạn giữa đêm trăng
Mảnh hồn tản mạn loang trên giấy
Sinh nhật ta tròn bảy chục năm.

         Hạ Thái Trần Quốc Phiệt

No comments: