Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Friday, September 9, 2016

KHẾ NỢ - Thơ Trương Đình Đăng



        Tác giả Trương Đình Đăng




KHẾ NỢ
     
Em chạm vào ký ức tôi
Một dấu môi
Rực lửa

Thời gan trôi
Em đủ đầy rồi
nên không nhớ nữa

Trong ký ức tôi
Dấu môi vẫn hồng ngọn lửa
Dấu môi hoá thành khế nợ
Em chẳng nỡ đòi
Tôi trả bằng thơ :

Nợ sách nợ đèn nợ áo cơm
Nợ tình nợ nghĩa nợ công ơn
Em hào hiệp quá ta thêm nợ
Bên má thơm hoài một dấu son !


              Trương Đình Đăng
                     9/9/2016  

READ MORE - KHẾ NỢ - Thơ Trương Đình Đăng

VĂN TẾ HỒN MA GIẶC PHƯƠNG BẮC - Lang Trương


         
                                Lang Trương

 


VĂN TẾ HỒN MA GIẶC PHƯƠNG BẮC

Hỡi ơi !
Mưa phủ kín trời
Mây giăng ngập lối
Bản quán mịt mờ
Cố hương diệu vợi.
Thảm thiết quá, luân hồi trọn kiếp, phận cam đành sanh bắc tử nam
Não nùng thay, nhân quả mãn đời, số đã định sống mờ chết tối.
Hồn vơ vất bờ hoang bụi vắng, lập lòe đốm lửa mà trơi
Tiếng nỉ non bóng xế canh tàn, ai oán cung đàn quỷ đói.
" Sách trời định đất nào vua nấy ", quỷ tha hương gục mặt cúi đầu
Cương thổ phân bắc đó nam đây, ma viễn xứ cong lưng khụy gối.
" Đánh cho để tóc dài
Đánh cho để răng đen
Đánh cho phiến giáp bất hoàn,
chinh luân bất phản
Đánh để sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ !"
Tuyên ngôn đành rành
Hịch truyền vang dội.
Địa lôi nổ chuyển rung trời đất Bắc, xương tan thịt nát, máu Mãn Thanh lênh láng ruộng đồng
Hỏa hổ soi sáng rực núi sông Nam, mặt cháy da sôi, xác Rợ Hán mỡ màng cây cối.
" Gươm Đại Việt mài khuyết mòn đá núi", xông lên chém phứa, nào hay đâu cổ giặc cứng hay mềm
"Voi An Nam uống cạn ráo nước sông", xốc tới đạp bừa, đâu sá kể đầu thù hôi hay thối.
Cũng có kẻ cậy tài thao lược, phải tay hào kiệt, mảnh nhung y chôn sấp liệm càng
Cũng có người cậy trí kinh luân, gặp đấng hùng anh, đồ kim giáp xô nghiêng bó vội.
Cũng có kẻ tâm hùng chí tráng, không quen thủy thổ, đành bỏ mình dưới nắng lửa chang chang
Cũng có người vai rộng sức dài, chẳng thuộc địa dư, cam quăng xác dưới ao đầm lầy lội.
Cũng có kẻ mưu cầu danh lợi, lợi danh chưa tới số, phách đã tan bàng bạc áng mây bay
Cũng có người mộng rắp khanh hầu, khanh hầu chẳng đến tay, hồn đã rã hiu hiu làn gió thổi.
Kìa Chi Lăng Liễu Thăng cụt ngọn, đầu lăn lông lốc, nghĩa phu thê đứt gánh hẹn thề
Nọ Đống Đa Nghi Đống lìa trần, cổ thắt lửng lơ, đạo thần tử nghẹn lời trăng trối.
Như Nguyệt Bạch Đằng " sấm rền chớp giật", giáo gươm tua tủa, Hoằng Tháo Toa Đô về Địa Phủ dâng công
Xương Giang Bình Than " trúc chẻ tro bay ", tên đạn bời bời, Lý Khánh Lương Minh xuống Âm Ty lãnh tội.
Nào những kẻ dân phu lao khổ, đói cơm lạt muối, chốn Cửu Tuyền còn thân gánh mình gồng
Nào những người nô dịch nặng nề, đòn nặng roi đau, nơi Chín Suối còn vai mang đầu đội.
Chết lăn lóc rừng hoang bể thẳm, phiêu dạt dật dờ mặc gió táp sương sa
Chết mỏi mòn núi hiểm sông thiêng, nổi trôi vất vưởng mặc mưa dầm nắng gội.
Kẻ lạc bước sơn cùng thủy tận, miệng hùm nọc rắn, bồng bế nhau Âm Cảnh dự phần
Kẻ sa chân vực thẳm ao sâu, nanh khái ngà voi, dắt díu chúng Diêm Đài phó hội.
Đi đường thủy có Hà Bá đưa đường
Đi đường bộ được Tử Thần dẫn lối.
Nghe tiếng trống lân lúc dập dồn lúc rộn rã, ngỡ tiếng trống công đồn mà phách tán hồn kinh
Trông bóng trăng thu khi vằng vặc khi mập mờ, tưởng chiến thuyền nã đạn mà nát gan vỡ phổi.
Cốt nhục nào chẳng xót, thịt xương kia chất đống thành gò
Huyết lệ nào không cay, nước mắt đó tuôn tràn thành suối.
Thảm thiết bấy mẹ già cha yếu, canh thâu tựa cửa, ngóng tin con ruột héo gan mòn
Thê lương thay vợ dại con thơ, đêm vắng trở mình, trông bóng bố đầu bù tóc rối.
Hồi cố quốc lối xưa thăm thẳm, thảm trạng nước nhà tin tức không thông
Ngóng cố hương nẻo cũ mịt mờ, hiện tình quê quán đường truyền khó nối.
Tổ quốc các ngươi nay :
Hạng nô tài hèn hạ lại tiếm ngôi cửu ngũ, nghe cái tên thánh tởm thần kinh
Giống ca xướng vô loài lại ngồi ghế mẫu nghi, trông bản mặt ma hờn quỷ chối.
Múa lưỡi rêu rao thánh hiền chật đất, nào Trình nào Khổng, học tiền nhân trên lọc dưới lừa
Ngoác mồm lếu láo chánh đạo ngút trời, nào Lão nào Trang, dạy hậu thế trong gian ngoài dối.
Mặt nung núc như loài heo nọc, còng lưng dân một nắng hai sương
Mình lặc lè tựa lũ lợn sề, nguy mệnh nước ba chìm bảy nổi.
Tàn độc hơn cả loài dã thú, Thiên An Môn xích nghiến lạnh lùng
Dã man hơn cả giống Sa Tăng, chùa Tây Tạng lửa thiêu nóng hổi.
Dẫu tu tròn chín kiếp cũng khó giải nghiệp căn
Dẫu giết sạch ba đời cũng khôn trừ tội lỗi.
Thương chúng ngươi kẻ trung người dũng, sa trường bỏ mạng, mà tông miếu từ đường chúng san phẳng, muôn nỗi xót xa
Thương chúng ngươi kẻ hiếu người hiền, chiến địa phơi thây, mà mồ mả tôn linh chúng quật nhào, vạn điều nhức nhối.
Việc lửa hương không kẻ lo toan
Việc tế tự không người đắp đổi.
Nay
Đạo sĩ ta ra lời hiệu triệu, Mãn Hán các ngươi sau trước sắp hàng
Lang Truong này phát lệnh xuất quân, Mông Khựa các ngươi dưới trên lập đội.
Kéo rốc về phương Bắc, vặn cổ thằng Bình cho dân an quốc thái, tôi chúa đồng lòng như thác đổ triều dâng
Thẳng tiến đến Trung Nguyên, lôi họng con Bành cho phong thuần mỹ tục, tướng sĩ đồng tâm tựa sóng gầm bão nổi.
Dặn con cháu chớ lầm đường lạc lối, hãy trông gương tổ phụ, chớ mê muội hung hăng mà mạng uổng thân vong
Nhắn hữu bằng cố mở trí khai tâm, hãy soi bóng ông cha, chớ ngu dốt hống hách mà đầu lìa máu xối.
Khai đạo nghĩa sống thù chết bạn, soạn lời văn giúp chuyển dạ ăn năn
Mở lòng nhân sinh dữ tử hiền, thảo bài tế giúp hồi tâm sám hối.
Cam lộ một bầu
Phóng tay cứu rỗi.
Thương thay !
                                                          Lang Trương
                                 Trung Thu năm Bính Thân 2016. Tuyên hạ

READ MORE - VĂN TẾ HỒN MA GIẶC PHƯƠNG BẮC - Lang Trương