Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Wednesday, September 7, 2016

TRẢ LẠI TÔI - Nhạc: Mai Hoài Thu - Thơ: Khưu Trí Dư Ktd - Ca sĩ: Diệu Hiền

READ MORE - TRẢ LẠI TÔI - Nhạc: Mai Hoài Thu - Thơ: Khưu Trí Dư Ktd - Ca sĩ: Diệu Hiền

NGOẢNH ĐẦU NHÌN LẠI / thơ Võ Quốc Tuấn




Ngoảnh Đầu Nhìn Lại

Tôi đã đi gần nửa đoạn đường.
Một mình cất bước đủ buồn vui.
Bao nhiêu gian khổ đời theo đuổi
Có sợ gì đâu lẽ vô thường!

Tôi đã đi hơn nửa đoạn đường.
Gia đình, xã hội gánh song đôi.
Dẫu cho ngang trái còn đeo bám
Vẫn đứng thẳng lưng, miệng vẫn cười.

Tôi vẫn xin đi hết đoạn đường.
Xem đời ngang trái đến tận đâu?
Xem đường công lí bao nhánh rẽ?
Để kẻ ngược- xuôi khỏi đụng đầu.

Trà Vinh: 09/7/2016

Võ Quốc Tuấn
READ MORE - NGOẢNH ĐẦU NHÌN LẠI / thơ Võ Quốc Tuấn

GIÓ THU XƯA / thơ Trúc Thanh Tâm




 GIÓ THU XƯA
  
Gió mùa thu thoáng qua
Mùi tóc em rớt lại
Màu mắt nào chứa chan
Trong tình yêu chín tới
Hồn em tràn nắng thu
Cho lòng ta thêm ấm!


Vẫn gió mùa thu xưa
Mùi tóc cũ tìm hoài
Màu mắt nào đã phai
Kỷ niệm nào trong tay
Tình em giờ đắng cay
Mưa chiều nay đã cũ!

Ta về trên lối mưa
Những muộn phiền quên hết
Người con gái thuở xưa
Kéo hồn ta biền biệt
Gió mùa thu vẫn ru
Nhưng tình em đã chết!

Cứ gọi là cố nhân
Cho tình vơi nỗi nhớ
Cứ được là ăn năn
Vơi nỗi khổ bên đời
Ta gọi mãi tên em
Tiếc thương tình ban đầu!

TRÚC THANH TÂM
  ( Châu Đốc )    
READ MORE - GIÓ THU XƯA / thơ Trúc Thanh Tâm

CHÔN KÍN NIỀM ĐAU / thơ Trương Thị Thanh Tâm




CHÔN KÍN NIỀM ĐAU 

Em như con dốc nhỏ 
Nghiêng về phía đời anh 
Cho trăm ngàn nỗi nhớ 
Theo dấu đời loanh quanh 

Em như con sóng lớn 
Cuốn trôi hồn vô tư 
Bến bờ xa hạnh phúc 
Chìm khuất bóng sương mù 

Em như khóm lục bình 
Trôi theo dòng vô định 
Biết nơi đâu là bến 
Nghe đời quá lênh đênh 

Em như bờ cát trắng 
Phơi mình chốn hoang vu 
Tìm về cõi thiên thu 
Bước chân đời phiêu lãng 

Em như loài hoa dại 
Khép nép bên ven đường 
Tìm đâu chút mùi hương 
Dưới chân người rên xiết 

Em như lá lìa cành 
Bay về đâu trăm ngã 
Gởi tình theo hồn lá 
Chôn kín một niềm đau!
      Trương Thị Thanh Tâm 
               Mỹ Tho 


READ MORE - CHÔN KÍN NIỀM ĐAU / thơ Trương Thị Thanh Tâm

CHUYỆN CŨ BÊN SÔNG GIĂNG - Hồi ức của Trường Hải Lê Văn Đông





CHUYỆN CŨ BÊN SÔNG GIĂNG
                                        (Kí ức làng)

 Làng Liên Chung của tôi nằm bên bờ tả ngạn sông Giăng – con sông bắt nguồn từ dãy Trường Sơn hùng vĩ chạy dài hết giải đất miền Trung. Vì ở gần sông nước nên hầu hết trẻ con chúng tôi cả trai lẫn gái đều biết bơi, biết lặn khá giỏi. Tuổi thơ ngụp lặn thỏa thích trên dòng sông những buổi trưa hè, nên dẫu đi xa bao nhiêu năm vẫn nhớ về dòng sông Giăng như một người bạn tri âm, tri kỉ. Con sông giăng đổ nước ra hòa nhập với sông Lam cách làng tôi chừng năm cây số. Ở đó thuộc địa phận xã Thanh Tiên có ngã ba sông đẹp lắm. Bên tả ngạn sông làng tôi có Bãi Nổi, chúng tôi thường nô đùa ở đó, dùng đá mỏng ném thia lia trên mặt nước xem ai ném được nhiều bước đi của viên đá. Bên bờ hữu ngạn là xã Thanh Liên, có bến xây xi măng, gạch đá nhiều cấp được xây từ thời Pháp thuộc. Người lớn kể lại rằng :Thời ông Kiểm Cường ( ông quan kiểm lâm tên là Cường ) dùng ngân khố để xây bến đó cho tiện việc kiểm tra lâm sản từ trên nguồn về xuôi theo sông Giăng, sông Lam về các huyện hạ lưu. Hơn nữa, vùng Đức Nhuận xưa là địa hạt cai quản của nhiều lãnh chúa có quyền thế và giàu có như  ông Bang Hoành, ông Phượng Lãm, ông Kiểm Cường…để các ông dễ đi tuần thú qua sông. Con đò ngang nối đôi bờ từ Bãi Nổi, Chợ Chùa sang Bến Xây Thanh Liên có từ ngày xa xưa. Cách đây ba chục năm mới có chiếc cầu treo Chợ Chùa thay thế, nó mới ngừng hoạt động, đò ngang chỉ còn trong kí ức quê hương.

Chuyện về dòng sông, chuyện bên dòng sông Giăng thì nhiều lắm, kể sao cho hết được. Tôi muốn kể một kỉ niệm mà tôi là người trong cuộc.

Dạo đó là mùa hè 1966, tôi và Ngọc cùng rủ Tuấn đi tắm ở bến đò. Tuấn họ Dương người Nam Định, nghỉ hè lớp 5 vào Nghệ An thăm gia đình ông bác là ông bà Muối . Ông bà bác thời kháng chiến chống Pháp từ Nam Định vào đây tản cư từ 1951. Đất lành chim đậu nên sau hòa bình ông bà quyết định định cư luôn ở đất Chợ Chùa không về quê cũ. Tôi và Ngọc cùng tuổi mười ba, Tuấn lớn hơn hai tuổi, người cao, gầy khô.

Là dân phố nên Tuấn chưa học bơi, không biết bơi. Gặp kì mưa lũ, mạn thượng nguồn sông Lam lên mạnh, còn mạn sông Giăng lại không mưa nên có hiện tượng nước óng xẩy ra. Sông Giăng nước ứ lại dâng cao nhưng trong văn vắt, nhìn thấy cả cỏ bị ngập dưới nước đến vài mét. Cả ba thằng vừa cởi xong áo quần vắt lên cành cây bên bãi, Tuấn nhảy ùm xuống trước, thế rồi làn nước kéo nó ra xa chới với, chìm dần chỉ còn chỏm tóc lơ phơ trên mặt nước. Tôi và Ngọc cùng nhảy xuống bơi ra cứu Tuấn. Ngọc bị sặc nước nên quay vào bờ. Tôi nhỏ con nhưng nhanh nhẹn, bơi đến gần Tuấn cầm lấy chỏm tóc của nó và bơi dìu vào bờ từ từ. Tuấn uống nước nhiều, da tái mét. Từng nghe người lớn bày cách cứu người đuối nước, tôi và Ngọc ôm hai chân dốc ngược Tuấn lên, ép vào bụng nó, nước từ miệng nó chảy ra ồng ộc. Nó thở nhẹ, mếu máo khóc và run cầm cập. Thương nó quá, chúng tôi lấy áo quần của mình lau khô cho nó rồi mặc quần áo nó vào. Điều Tuấn sợ nhất là lộ chuyện trốn đi tắm suýt chết đuối thì ông bà bác mắng và sẽ không cho nó ở chơi nữa, phải về Nam Định. Cả ba cùng bàn bạc đi đến nhất trí giấu đến cùng không cho ai biết sự việc này. Tuấn rủ chúng tôi đến nhà bà Vân bán kẹo củi mua mấy hào cùng nhau ăn thề giấu chuyện và mừng chiến thắng Hà bá sông Giăng.

Hết kì nghỉ hè, Tuấn chia tay gia đình bác và lũ trẻ chúng tôi về quê tiếp tục năm học mới. Các hè sau không thấy Tuấn vào nữa. Chúng tôi biệt tin nhau từ đó.

Mùa hè cách đây hơn mười năm tôi về quê, khi đó tôi đã ngoài năm mươi tuổi rồi. Gặp bà Muối bán hàng vặt ở chợ, bà đã hơn tám mươi rồi. Bà mời tôi vào nhà chơi, có thằng cháu ngoài quê mới vào có hỏi thăm chú đó. Tôi vào đến nhà găp một người đàn ông đứng tuổi, tóc bạc trắng đang ngồi uống nước. Cả hai người đều lạ nhau như lần đầu tiên mới gặp trên đời này. Người đàn ông tóc bạc lên tiếng trước : “ Chào bác, mời bác vào nhà xơi nước với nhà em, em là Dương Tuấn mới ở Nam Định vào thăm gia đình hai bác và các anh chị”. Tôi định thần nhìn kĩ xem còn nét nào của thằng Tuấn ngày xưa không ? À đây rồi, vẫn gương mặt xương xương, dáng người gầy thuở ấy.

      Tôi mạnh dạn hỏi: Tuấn đấy phải không? Có nhớ ai đây không? Nhớ bến đò sông Giăng không? Giọng Tuấn nhỏ đi, chùng xuống : “Có phải anh Lê Đông đó không? Tôi vẫn nhớ anh, nhớ ân nhân cứu mạng tôi cách đây hơn 40 năm. Tôi cứ ao ước vào đây để một lần được gặp lại anh đấy.” Tuấn cứ luôn mồm xuýt xoa:  “Qủa đất tròn mà! Tôi tin có ngày gặp anh mà!”

Tuấn kể: sau khi học hết lớp 7, đất nước chiến tranh, Tuấn lên đường làm nghĩa vụ quân sự. Mấy năm sau sức khỏe yếu được phục viên về quê lấy vợ, sinh con, làm ăn lương thiện. Tóc bạc sớm nên Tuấn có biệt danh là “Tuấn Bạc.”

Tuấn nói với tôi: Tôi cũng đã kể cho vợ con nghe về người đã cứu khỏi lưỡi hái tử thần sông Giăng ngày xưa ấy. Tuấn cứ nằng nặc mời tôi: “Mong anh ra chơi cho biết nhà. Cứ đến Bến xe Nam Định hỏi Tuấn Bạc thì ai cũng biết, vì tôi giao lưu xã hội rộng rãi lắm anh ạ ”. Tôi nói có dịp thuận tiện nào đó sẽ đi, nhưng mãi đến nay vẫn chưa đáp lại được thịnh tình của Tuấn. Không biết dạo này tóc Tuấn bạc đến mức nào rồi?

Cách đây hơn một năm tôi có việc kết hợp đi chơi xuống Vinh gặp Ngọc, vui vẻ lắm. Ngọc cũng đã về hưu, nay hợp đồng làm thêm ở Phòng tiếp dân của Tỉnh ủy. Tôi hỏi Ngọc: “Ông có còn nhớ phi vụ đi tắm với Tuấn Nam Định ngày xưa ở bến đò Bãi Nổi không? Ngọc cười hiền lành: “Nhớ chứ, quên sao được! Thế từ đó đến nay ông đã để lộ chuyện đó với ai chưa? ”.  Tôi hồn nhiên: “Chưa đâu Ngọc ạ, chỉ ba chúng mình và dòng sông Giăng biết chuyện đó thôi.”

  Đỉnh Sơn, 18 / 8 / 2016
  Trường Hải Lê Văn Đông    


READ MORE - CHUYỆN CŨ BÊN SÔNG GIĂNG - Hồi ức của Trường Hải Lê Văn Đông

ĐỌC “THƯƠNG BÀNG LÁ ĐỎ” THƠ SĨ CHƯƠNG - Lời bình Châu Thạch


                
                         Nhà bình thơ Châu Thạch



ĐỌC “THƯƠNG BÀNG LÁ ĐỎ” THƠ SĨ CHƯƠNG
                                                  Lời bình: Châu Thạch

Cây bàng lá đỏ đã đi vào nền văn học Việt Nam qua những bài văn, bài ca và bài thơ được đời yêu mến. Trước năm 1975  học sinh miền Nam không mấy ai không thuộc lòng bài văn “Nhặt Lá Bàng” của Nhất Linh. Bài văn không nói đến màu lá nhưng tất nhiên lá bàng phải đỏ rồi mới rơi xuống đất để nhặt. Sau 1975 Trịnh Công Sơn đã nhắc đến cây bàng lá đỏ như là một biểu tượng của mùa thu Hà Nội trong bài ca “Nhớ Mùa Thu Hà Nội” qua giọng ca Hồng Nhung đã làm rung động bao trái tim người. Gần đây bài hát “Cây Bàng” của Trần Lập còn có thêm ý nghĩa như một triết lý nhân sinh qua lời hát “Để sống có ý nghĩa hơn/ Dù mùa đông bút giá/ Lá rơi như giọt máu đỏ/ Vẫn tin rằng/ Rồi xuân sẽ tới mầm sống đâm chồi/ Đón nắng vàng”. Bài hát đã gây tiếng vang trong giới trẻ. Ngoài ra còn có biết bao bài thơ nhắc đến cây bàng và nhắc đến lá đỏ liên quan đến kỉ niệm trong đời của tác giả. Vừa qua trên trang web vannghequangtri xuất hiện bài thơ “Thương Bàng Lá Đỏ” của Sĩ Chương lại thêm một lần nữa cây bàng lá đỏ được tôn vinh. Cây bàng ở miền Bắc thường đỏ lá vào mùa thu nhưng cây bàng ở miền Trung thì thường đỏ lá vào mùa đông. Do đó biểu tượng đẹp của “Mùa Thu Hà Nội” trên màu lá đỏ đem vào miền Trung nó còn đẹp hơn, bởi đó là nét đẹp trong phong ba bão táp. Vì vậy trong bài thơ “Thương Bàng Lá Đỏ” nhà thơ Sĩ Chương đã nhập đề bằng hai câu thơ gói trọn hàng cây bàng lá đỏ trong mùa đông:

Anh không quên mùa đông
(Hàng cây bàng lá đỏ)

Ta thấy ngay một bức tranh toàn màu đỏ cho khắp cả mùa đông. Bức tranh có thể là tươi thắm hay ảo não tùy theo tâm trạng từng người nhưng phải công nhận đó là một bức tranh rất đẹp. Tác giả không quên được mùa đông vì tác giả nhớ đến hàng cây bàng lá đỏ. Tất nhiên hàng cây bàng lá đỏ đó là dấu ấn lịch sử trong đời người của tác giả rồi. Phương pháp nhập đề bài thơ như thế người ta gọi là “gây ấn tượng mạnh” và tác giả đã thành công khi đập vào mắt ta một bức tranh đỏ tuyệt đẹp như ráng chiều . Ta sẽ thắc mắc vì sao tác giả không quên được mùa đông? Vâng, lý do có ngay:

Anh không quên mùa đông
Ngày em về bên đó
Có hai họ cùng đưa

À ra thế! Một mối tình tan vỡ!
Đọc đến đây tự nhiên ta thấy màu đỏ của hàng cây bàng không còn rực rở nữa. Có lẽ nó đang đứng dưới cơn mưa trong một ngày ảm đạm. Đúng vậy. Ta hãy nghe tác giả tâm sự:

Anh lặng thầm trong mưa
Bước chân về gác trọ
Mang nổi buồn cùng gió
Thổi qua xiết miền em
Để rồi nhận về tim
Hàng cây Bàng lá đỏ
Thổi xiết qua miền em - ở đây tác giả khéo dụng từ muốn mượn hình ảnh gió thổi xiết chính là nỗi nhớ cứ da diết nhớ hoài, nhớ mãi, đi nhớ, ngồi nhớ, nằm cũng nhớ về bên em, nhớ mãi như thế để rồi nhận được gì ngoài "Thương bàng lá đỏ"? Thế giới đã đảo lộn hết rồi. Trời thì mưa, gió thì buồn, không chỉ buồn ở miền anh mà “thổi xiết qua miền em”. Tứ thơ này rất hay vì nó cho biết nỗi buồn không phải chỉ riêng anh, nó “thổi xiết qua miền em” có nghĩa là con tim em cũng đau đớn lắm. Hàng cây bàng bây giờ vô cùng ảm đạm, nó biến thành màu tang thương, màu máu vì tác giả đã đau khổ “nhận về tim/ Hàng cây bàng lá đỏ”. Thơ thất tình thì thật nhiều, vì thế nó trở nên bình thường với những hình ảnh như cô đơn trên gác trọ, đi trong mưa gió, nhưng ở đây Sĩ Chương thật là khôn khéo khi gắn những hình ảnh đó chỉ để điểm xuyết vào một bức tranh ảm đạm toàn diện của hàng cây bàng lá đỏ. Hãy tưởng tượng bức tranh này, ta sẽ thấy hàng cây bàng như những chiếc tơi sẫm màu đứng trong mưa, và gác trọ, và người đi là biểu tượng của cô đơn, của giá buốt làm lay động lòng người.
Thất tình thì phải khóc sướt mướt. Ở đây Sĩ Chương không khóc nhiều. Nhà thơ nén hết bao kỷ niệm dấu vào lòng và dồn hết tâm tư vào hàng cây bàng lá đỏ:

Ngày xưa - ngày xưa đó
Cây Bàng nhỏ em ơi !
Bẻ lá lót ta ngồi
Cùng thương chiều lá đổ
Giờ cây Bàng thay lá
Mưa gió lạnh mùa đông

Vì sao nhà thơ chỉ nhắc đến một kỉ niệm mà thôi? Vì tình yêu đã lớn lên cùng cây bàng. Cây bàng chứng kiến tình yêu lớn lên mỗi ngày, cây bàng cổ vũ mối tình bằng những chiếc lá của mình cho đôi trẻ lót ngồi, cây bàng nhận được sự yêu thương của đôi tình nhân khi lá nó đổ về chiều. Hình ảnh duy nhất của cây có tác dụng làm cô đọng nhiều kỉ niệm trong một kỉ niệm, khiến cho cây bàng trở nên gần gũi, thân thương và quan trọng nhất đối với tác giả  cũng như nó thành hình tượng như có linh hồn và đáng yêu trong mắt người đọc. Cây bàng đã thay lá mỗi năm một lần nhưng cho đến bây giờ tác giả mới thật sự thấy cây bàng thay lá: “Giờ cây bàng thay lá/ Mưa gió lạnh mùa đông”, bởi vì cây bàng thay lá lần này báo hiệu cuộc tình đã chết và mùa của yêu đương sẽ là đông vĩnh viễn. Vế thơ làm nổi lên cái kỉ niệm tuyệt vời ở bốn câu thơ đầu và dìm ngay cái kỉ niệm ấy trong nước mắt ở hai câu thơ sau. Đó phải chăng là nghệ thuật bố cục ý và tứ trong sáng tác của nhà thơ thật là điêu luyện?
Và vế chót của bài thơ như những hồi chuông dồn dập, đồng vọng lanh lảnh trong không gian tiếng tơ lòng đau thương của tác giả:
 
Đưa em về bên sông
Anh thương Bàng lá đỏ
Ngày xưa - ngày xưa đó
Lá Bàng đỏ mùa đông.
Đưa em về bên sông
Anh thương Bàng lá đỏ.

À, đến đây tác giả đưa em về bên sông sao không thương em mà lại anh thương bàng lá đỏ, thương những kỉ niệm một thời ngồi bên nhau, nói với nhau cùng thương chiều lá đổ, cùng biết mỗi tình chúng mình cũng rơi như chiếc lá vậy thôi. Những câu thơ điệp vận, điệp từ, điệp hình thể hiện sự bức xúc trong lòng, thể hiện niềm đau quặn thắt. Nhà thơ đã khéo léo thúc vào tim ta liên hồi lời than vãn như tiết tấu của điệp khúc trong một bài ca, làm cho hình ảnh của bàng lá đỏ, của mùa đông rét mướt bên sông và bóng em  hiện ra liên tục, đưa người đọc lọt vào và quay quắt trong vùng bão bùng của cơn thất tình trong tâm hồn tác giả. Đây là một đoạn kết mà cuốn phim về một cuộc tình song song với hàng cây bàng lá đỏ làm cho khán giả còn lưu luyến nhưng thỏa lòng khi đứng dậy.
Bài thơ “Thương Bàng Lá Đỏ” của Sĩ Chương không có gì mới mẽ trong cuộc tình nhưng hay vì lời thơ nhẹ nhàng, thanh thoát và tứ thơ dùng một bức tranh tuyệt đẹp về hàng cây bàng lá đỏ trong mùa đông, gởi được vào hàng cây bàng lá đỏ hình ảnh và màu sắc của khối tình tan vỡ. Bài thơ còn có âm điệu, tiết tấu như một bản nhạc, do đó khi được phổ nhạc bởi nhạc sĩ Huỳnh Văn Bích  và qua giọng ca truyền cảm của ca sĩ Thanh Yên nó dễ đi vào lòng người.

                                                                                Châu Thạch



          Nhà thơ Sĩ Chương

THƯƠNG BÀNG LÁ ĐỎ

Anh không quên mùa đông
(Hàng cây Bàng lá đỏ)
Anh không quên mùa đông
Ngày em về bên đó
Có hai họ cùng đưa
Anh lặng thầm trong mưa
Bước chân về gác trọ
Mang nổi buồn cùng gió
Thổi qua xiết miền em
Để rồi nhận về tim
Hàng cây Bàng lá đỏ
Ngày xưa - ngày xưa đó
Cây Bàng nhỏ em ơi !
Bẻ lá lót ta ngồi
Cùng thương chiều lá đổ
Giờ cây Bàng thay lá
Mưa gió lạnh mùa đông
Đưa em về bên sông
Anh thương Bàng lá đỏ
Ngày xưa - ngày xưa đó
Lá Bàng đỏ mùa đông.
Đưa em về bên sông
Anh thương Bàng lá đỏ.

                Sĩ Chương 
               14/01/2016

READ MORE - ĐỌC “THƯƠNG BÀNG LÁ ĐỎ” THƠ SĨ CHƯƠNG - Lời bình Châu Thạch

ẤM BÀN TAY ẤY - Thơ Trần Ngọc Mai






ẤM BÀN TAY ẤY
(Kính tặng những người đàn ông tuổi từ 50 trở lên)
             
Em hãy quên những ngày tháng lạnh
Khi chưa yêu, khi em vẫn bơ vơ
Khi mà em chỉ biết ngóng chờ
Điều gì đó chính em còn chẳng rõ...
Em yêu nhớ: Những nỗi niềm nức nở
Đã trôi đi cùng với tháng năm buồn
Chút hương lòng, lau dòng lệ em tuôn
Ngày xưa cũ - đã là ngày xưa cũ...
Gío sẽ vuốt tóc mềm ru em ngủ
Ru ta quên va vấp tháng năm buồn

Em gối đầu 
trên những ánh sao rơi
Trăng đã đến em đâu còn mộng mị...
Mình thương nhau tự bao giờ em nhỉ?...
Có phải vì em quá đỗi dịu dàng 
Em vẫn buồn, vì anh mãi lang thang
(Người nghệ sỹ nửa mùa như anh đó
Hãy cùng nhau những lo âu - từ bỏ 
Em cứ mãi là em - ngày bé dại
Sẽ cùng nhau êm ả suốt đoạn đời ...
Tóc phai rồi không nói chuyện xa xôi
Em hãy đưa tay mềm cho anh nắm...
Sẽ không buông em, dù mộng dài mộng ngắn...
Sẽ mãi thương em khi tóc đã phai rồi...
Trên hiên nhà 
bao mùa lá 
đã rơi
Da mình sẽ nhăn nheo rồi...
run rẩy...

Ngồi bên em, vẫn nắm bàn tay ấy...
Ấm một lời thề hẹn 
thuở...
thanh xuân...

Trần Ngọc Mai

READ MORE - ẤM BÀN TAY ẤY - Thơ Trần Ngọc Mai