Tác giả Phạm Đức Nhì
MỘT CÁCH NHÌN KHÁC VỀ VAI TRÒ CỦA
VẦN TRONG THƠ
Lan Man Về Cái Tôi
Để có thể hội
nhập và thích ứng với cuộc sống hàng ngày của cộng đồng mỗi con người đương đại
phải tuân thủ rất nhiều nguyên tắc giao tiếp, ứng xử trong xã hội. Xã hội càng
văn minh số lượng nguyên tắc càng nhiều. Sau khi vào đời một thời gian (dài
ngắn tùy hoàn cảnh riêng) trong mỗi thân xác con người có 2 cái tôi cùng chung
sống nhưng luôn đấu đá lẫn nhau để đòi quyền làm chủ thân xác đó: cái tôi đích
thực và cái tôi hội nhập với cuộc đời – tôi tạm gọi là “cái tôi văn hóa”. Tuổi
đời càng cao cái tôi văn hóa càng mạnh, càng rõ nét và cái tôi đích thực càng
yếu kém, mờ nhạt. Đến một lúc nào đó cái tôi văn hóa sẽ “đè bẹp” cái tôi đích
thực để độc quyền chiếm hữu cái thân xác kia. Lúc ấy, nói như Jean Paul Sartre
(1) thì con người là một “kẻ vong thân” (đánh mất chính mình). Còn nói như
Albert Camus (1) thì con người đích thực đã bất lực - để một “kẻ xa lạ” đến
chiếm hữu thân xác mình.
Hai Trường Hợp “Đánh Mất Cái Tôi”
1/ Tại các nước dân chủ tự do: Con người
dạy bảo nhau tạo phong cách lịch thiệp trong giao tiếp, xây dựng nếp sống văn
hóa, văn minh để hội nhập vào dòng phát triển của nhân loại. Lâu dần cái tôi
văn hóa sẽ che khuất cái tôi đích thực. Con người chỉ còn là một “cỗ máy” do lý
trí điều khiển. Mọi suy nghĩ, hành động đều là phản ứng (có điều kiện) của “cỗ
máy” trước hoàn cảnh xã hội. Đây là nỗi băn khoăn, lo ngại của các triết gia
phương tây về thân phận con người.
2/ Tại các nước độc tài chuyên chế: Cái
tôi đích thực bị một cổ 2 tròng, vừa bị “cái tôi văn hóa” chèn ép, vừa bị nỗi
sợ cường quyền ám ảnh nên nhiều lúc phải hóa trang thành một cái tôi khác mà
tôi xin phép gọi là “cái tôi teo chim”.
(Tôi hoàn toàn không có ý “xách mé” gì những người làm công tác văn học ở trong
nước mà chỉ muốn nhắc tới một thực tế không được vui về hoàn cảnh của nhà văn,
nhà thơ Việt Nam trong đó có nhiều người tôi rất kính trọng và quý mến).
Giữa cái tôi
văn hóa và cái tôi teo chim thì cái tôi teo chim mạnh hơn, có uy thế hơn nhiều.
Nghĩ đến chết chóc, tù đày, gia đình bị tước đoạt mọi phương tiện, nguồn sống,
ngòi bút của thi sĩ đôi lúc phải cong lại hoặc vừa viết lại vừa phải “lách”.
Trong các tác phẩm của Nguyễn Khải cái tôi teo chim đã che khuất cái tôi văn
hóa nên ông nhà văn của chúng ta vào cuối đời đã phải la toáng lên “Đi Tìm Cái
Tôi Đã Mất” và phải chờ đến đúng ngày sau khi xác thân mình đã nằm dưới huyệt
vợ con mới được chuyển cái thông điệp thương tâm ấy đến mọi người. Thông điệp
trong Bánh Vẽ của Chế Lan Viên mạnh hơn, triệt để hơn, nên thời gian chờ đợi
lâu hơn - chết rồi cũng chưa yên tâm - phải sau mấy lần “giỗ” mới được xì ra
ngoài. Nói như nhà thơ Nguyễn Khôi là “kiểu để hạ cánh an toàn một cách chắc
chắn đã”.
Lý Trí: Kẻ Thù Của Thi Sĩ Trong Lúc Làm Thơ
Thi sĩ làm thơ
trong lúc tỉnh táo quá thì những điều viết ra sẽ được cân nhắc, suy hơn, tính
thiệt kỹ càng. Đó sẽ là những vần thơ phải
đạo được “đạo diễn” bởi “cỗ máy biết suy nghĩ” - “cái tôi văn hóa”. Nếu thi sĩ
có kỹ thuật thơ cao cường – ngôn từ trong sáng, thế trận chữ nghĩa chặt chẽ,
hiệu quả - thì thơ vẫn có cảm xúc, vẫn có thể “hay” nhưng không có Hồn.
Khi thi sĩ
thật cao hứng, lên cơn điên vì yêu, hận (giận), vui sướng, buồn bã, ghen ghét,
ham muốn … cảm xúc sẽ sôi lên phủ mờ lý trí, “cái tôi đích thực” sẽ vùng dậy
đẩy “cái tôi văn hóa” (và “cái tôi teo chim”, nếu có) vào bóng tối để dành quyền
“đạo diễn” bài thơ của mình. Thi phẩm viết ra trong tâm cảnh ấy sẽ chẳng màng
đến chính kiến, lập trường, truyền thống, đạo đức, lễ giáo, thước đo giá trị
của người đời … mà chỉ là những gì tuôn trào ra ngòi bút bởi “cơn điên” của thi
sĩ đang thôi thúc trong lòng. Lúc ấy kỹ thuật thơ vẫn mang dáng dấp đẳng cấp
của thi sĩ nhưng lời thơ, tứ thơ – không còn bị chi phối bởi cái tôi văn hóa -
sẽ là tâm tình chân thật của “cái tôi đích thực”. Nếu thi sĩ chọn được thể thơ
thích hợp, tứ thơ sẽ chảy thành dòng, cảm xúc ở tầng 3 (2) sẽ lớn mạnh, bài thơ
sẽ có hồn. thông điệp của thi sĩ sẽ đi vào lòng độc giả một cách dễ dàng.
Khi trạng thái
cao hứng, “lên cơn” của thi sĩ “xẹp” xuống, cảm xúc nguội dần, lý trí sẽ xuất
hiện, lời thơ ít nhiều cũng sẽ ẩn chứa sự “khôn mgoan, khéo léo”, sẽ bớt chân
thật, câu thơ sẽ nhạt, hồn thơ sẽ lặng lẽ ra đi.
Một Chút Trải Nghiệm Cá Nhân
Tôi đang sống trên nước Mỹ
đất nước tự do
làm thơ
không phải lấm lét nhìn trước, ngó sau
nỗi lo sợ theo vào
cả trong giấc ngủ
giật thót mình nghe tiếng chó sủa
ban đêm (3)
Nhưng sao trước mặt vẫn chập chờn
những bóng ma quá khứ
ánh mắt van lơn
bàn tay níu giữ
khiến đã biết bao lần
dòng thơ đang băng băng tuôn chảy
phải khựng lại
luồn lách qua hướng khác
Để có thể hết lòng hết dạ
trọn tình trọn nghĩa
với Nàng Thơ
tôi
tay cầm bút viết
tay nắm dao quơ
đuổi, giết bằng sạch những hồn ma,
bóng quỷ
(truyền thống, khuôn phép lễ giáo,
thước đo giá trị
của người đời)
Trên trang thơ của mình
tôi chỉ trung thành
với nhịp đập
của chính trái tim tôi.
(Yêu Thơ Nên Phải Hết Lòng Với Thơ,
PĐN, phamnhibinhtho.blogspot.com)
Thú thật, tôi
đã nhiều lần bị cái tôi văn hóa bất ngờ xuất hiện che lấp trang thơ đang viết
dở của mình. Đó là lúc hết hứng, cơn điên đã “xẹp”. Lúc ấy nói:
Trên trang thơ của mình
tôi chỉ trung thành
với nhịp đập
của chính trái tim tôi
thì rất dễ
nhưng thực hiện lại vô cùng khó khăn. Muốn viết tiếp bài thơ khi cơn điên đã
“xẹp” mà không phản bội nhịp đập của chính trái tim mình là một điều không thể
được. Chỉ có cách vứt bài thơ vào sọt rác hay chờ đợi một cơn điên khác – mà
điều sau này cũng rất khó xảy ra.
Tôi cũng đã
gặp những bài thơ “nửa điên nửa tỉnh” - đoạn đầu khá nhiều cảm xúc, đoạn sau
khô khan, nhạt nhẽo, đọc chán phèo. Đó là trường hợp tác giả hết hứng nhưng
“tiếc của giời” cố viết cho xong bài thơ.
Tại Sao Thơ Nên Là Món Ăn Nhẹ Dễ Tiêu?
Một lần chạy
xe Honda (2 bánh) từ Cầu Rào đến phi trường Cát Bi (Hải Phòng) tôi gặp một tấm
bảng chỉ đường kích thước khoảng 30 x 40 cm trên viết đến chục hàng chữ đầy cả
tấm bảng. Xe dừng lại (vì đèn đỏ) ở cách bảng 20 mét, tôi muốn đọc để biết tấm
bảng chỉ dẫn điều gì cũng chỉ “chữ được chữ mất”. Còn nếu đang lái xe trên
đường thì có thể nói “tấm bảng ấy có cũng như không”.
Ở Mỹ tôi có
người bạn làm ở ngành giao thông (Department of Transportation) của tiểu bang
Texas. Nhiệm vụ của anh bao gồm cả việc thiết lập và bảo trì những bảng chỉ
đường trên các trục lộ giao thông. Anh cho biết tất cả những bảng chỉ đường
hoặc cắm bên vệ đường hoặc treo băng ngang xa lộ - từ kích thước tấm bảng cho
đến cỡ kiểu chữ và các ký hiệu bằng hình, màu sắc - đều được nghiên cứu kỹ
lưỡng để người lái xe liếc qua là có thể tiếp nhận thông tin một cách nhanh
chóng để kịp thời ứng xử với tình huống được cảnh báo ở phía trước. Sau khi
đường được nâng cấp – có thể nâng tốc độ của phương tiện di chuyển (thí dụ từ
45 lên 60 dặm/giờ) – thì những bảng cảnh báo phải cắm lùi lại để người lái xe
(với tốc độ mới) có đủ thời gian tiếp nhận thông tin và chuẩn bị ứng phó với
tình huống mà bảng chỉ đường đã cảnh báo.
Với thơ cũng
vậy. Đọc thơ là thả hồn mình theo dòng chảy của tứ thơ để cảm nhận tâm tình của
tác giả. Mỗi câu thơ, trong chức năng truyền thông, còn là tấm bảng chỉ đường
dẫn dắt độc giả đi một đoạn trên lộ trình của bài thơ. Nếu dòng chảy của tứ thơ
nhanh mà câu thơ lại khó tiêu - giống như bảng chỉ đường khó đọc, khó hiểu -
độc giả hoặc là chạy quá (và đi lạc) hoặc phải tạm ngừng, đọc đi đọc lại để
hiểu ý tác giả. Cuối cùng dù có hiểu được chăng nữa thì cũng mất hứng, tiến
trình thưởng thức thơ không được suôn sẻ, ảnh hưởng đến mức độ thành công của
bài thơ.
Sau đây là một
số đoạn thơ từ Dễ đến Khó Tiêu (chỉ là những thí dụ tượng trưng):
1/ Thi hóa
thân thành họa:
Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay
Đây là loại
thơ dễ tiêu nhất vì ngôn ngữ đã tan biến, hóa thân vào trong tranh, đi thẳng
vào tâm hồn độc giả. Lý trí thất nghiệp.
2/ Thi trung
hữu họa: Trong thơ có tranh.
Áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc
Áo nàng xanh anh mến lá sân trường
Sợ thư tình không đủ nghĩa yêu đương
Anh thay mực cho vừa màu áo tím...
Áo nàng xanh anh mến lá sân trường
Sợ thư tình không đủ nghĩa yêu đương
Anh thay mực cho vừa màu áo tím...
Chữ nghĩa có
tranh minh họa nên dễ cảm nhận, lý trí có kiểm soát nhưng ít khi can thiệp.
2/ Show, Not
Tell: Đưa ra dữ kiện để độc giả tự “suy ra” và cảm nhận tâm trạng.
Nhà giai thuê chín chiếc đò đón
dâu
Nhà gái ăn chín nghìn cau
Nhà gái ăn chín nghìn cau
Tiền cheo, tiền cưới chừng đâu chín nghìn
Lang thang tôi dạm bán thuyền
Có người giả chín quan tiền, lại thôi.
Lang thang tôi dạm bán thuyền
Có người giả chín quan tiền, lại thôi.
Độc giả “bắt”
được, hiểu được những dữ kiện tương đối dễ dàng nên có thể thả hồn theo dòng
chảy của tứ thơ. Đến câu cuối, tùy độ nhạy bén của tâm hồn, độc giả có thể hiểu
được ẩn ý của tác giả từ sau vài giây đến vài phút. Lúc ấy cảm giác thích thú
sẽ tăng lên gấp bội.
4/ Thơ không
vần, khêu gợi óc tò mò của độc giả:
Nó không hình không sắc
Tuyệt không có tiếng có lời
Nó không có gì. Chỉ là một sự chờ đợi lặng lẽ
Thế thôi.
Nó là sự chờ đợi từ vô thuỷ đến vô chung
Ai nấy lần lượt đến với nó, không ai gặp nó
Tất cả đều hướng về nó, như hướng về ý nghĩa cốt
tuỷ của chính mình
Tất cả đi về hướng nó. Nó chờ.
Nó chờ một con kiến, nó chờ một con voi.
Nó chờ một hạt bụi, nó chờ một đoàn quân.
(Sự Chờ Đợi,
Võ Phiến, tienve.org)
Đây là đoạn
thơ tác giả viết bằng cái đầu, nặng chất trí tuệ, thiếu cảm xúc. Độc giả muốn
hiểu tứ thơ cũng phải căng óc ra mà đọc. Giữa người viết và người đọc không có
"chỗ" để tâm hồn giao cảm.
5/ Ý tứ mù
mịt, khó hiểu:
Trên sông Tiền
Đường bình lặng, Thúy Kiều ngồi ở đầu thuyền gởi khúc hồng nhan bạc mệnh vào
thiên cổ. Nàng đã vứt vào sọt rác những con cu thối và trở về. Trong ánh sáng
khai nguyên của các thần linh, âm hộ nàng trong suốt. Và reo vui. Không phải vì
trái tim nàng đã được lau chùi bằng nước mắt và tóc. Không phải vì sự đền đáp
của hư vô… (Và Bởi Vì Âm Hộ
Nàng Trong Suốt, Nguyễn Viện, tienve.org)
Nguyễn Viện là một nhà thơ thành danh
trong việc làm mới thơ trên trang tienve.org. Nhưng với tôi, bài thơ của ông quá
khác biệt với những gì tôi gọi là Thơ.
Nếu đưa ngôn
từ có tính học thuật, hàn lâm, triết lý (nặng chất trí tuệ) vào thơ để chuyển
tải một ý tưởng cao siêu, một trạng thái tâm lý phức tạp nào đó thì người đọc
sẽ “chậm tiêu”, khó cảm và sẽ tạo cơ hội cho lý trí xen vào gây rắc rối cho
tiến trình thẩm thấu thơ. Lúc ấy chức năng truyền thông của bài thơ, nếu may
mắn lắm cũng chỉ thành công một nửa - độc giả có
thể hiểu (nếu uyên bác hoặc đọc kỹ) nhưng khó
cảm được tứ thơ và bài thơ bị coi là thất bại. Nói như thế không có
nghĩa không thể dùng thơ để diễn tả một ý tưởng cao siêu. Ý tưởng cao siêu nên
là cái đích cuối cùng, còn ngôn ngữ, lời thơ dẫn độc giả đi đến cái đích ấy nên
đơn giản, dễ hiểu và dễ cảm.
Vai Trò Của Vần (Hoặc Nhịp Điệu) Trong Thơ
Với thi sĩ,
vần giúp xâu kết những ý tưởng, sự kiện, những mảnh tâm tình khiến bài thơ liền
mạch, nhất khí. Trong bài thơ có vần (ngoại trừ thể thơ mới trường thiên từng
đoạn 4 câu) cảm xúc tuôn chảy thành dòng, lớn mạnh nhanh chóng nhờ sóng sau dồn
sóng trước. Khi thi sĩ đang cao hứng, “lên cơn”, dòng cảm xúc liền mạch, trôi
nhanh đó giúp tứ thơ tuôn trào, không có “thời gian chết” để lý trí xuất hiện,
tạo cơ hội cho hồn thơ hình thành.
Với độc giả,
vần là thuốc dẫn, là thứ “dầu bôi trơn” giúp thông điệp của bài thơ theo dòng
cảm xúc trôi nhanh vào hồn. Nhờ thứ “dầu bôi trơn” ấy ông (bà) ta “cảm” được
tâm tình của thi sĩ một cách dễ dàng hơn, (có thể) không phải trải qua tiến
trình suy nghĩ, tránh được (hoặc giảm thiểu) sự chen vào can thiệp của lý trí
để cuối cùng có thể bắt gặp hồn thơ (nếu có).
Nhưng vần là
con dao hai lưỡi; nếu vần quá đậm thì bài thơ sẽ mắc phải “hội chứng nhàm chán
vần” đọc rất “ầu ơ”, dễ ngán.
Chè Đường
Tôi thích chè
chè ngọt
bởi có đường
đường ít
chè không đủ ngọt
không ngon
đường nhiều
ngọt lợ
ăn gắt cổ.
Nấu chè ngon
do đó,
cũng cần có tài
ngoài việc phải biết chọn các thứ đậu,
dừa, bột, nếp,
các thứ khoai
(thứ nào nấu với thứ nào
liều lượng bao nhiêu thì hợp)
còn phải biết
nêm đường cho vừa ngọt
Chè có món có
thể nêm đường kha khá
có món ít
đường một chút cũng không sao
nhưng đã là
chè thì phải có đường
nấu chè
nếu không nêm
đường
(hoặc bằng
cách nào đó
giúp chè có vị
ngọt)
thì chè sẽ
không còn là chè nữa
mà thành món
khác.
(Phạm Đức Nhì
Vâng! Đúng
vậy. Nếu không có vần (vị ngọt của thơ ca) thì Thơ sẽ không còn là Thơ nữa mà
thành Thứ Khác.
Kết Luận
Đối với bạn
đọc yêu thơ, tôi có một tin vui muốn chia sẻ với các bạn. Nếu có một giây phút
nào đó trong đời, bạn đọc hoặc nghe được một bài thơ có hồn và chính bạn cũng
cảm được cái hồn của bài thơ đó, thì chính giây phút đó bạn là một trong số rất
ít người may mắn trên thế giới; bạn đang được giao tiếp với đồng loại của mình
bằng “ngôn ngữ của loài người”, từ con người đích thực chứ không phải từ những
cỗ máy di động mà suy nghĩ, lời nói hay cung cách giao tiếp chỉ là phản ứng có
điều kiện trước hoàn cảnh xã hội. Như thế không phải là điều vô cùng sung sướng
hay sao? Và thi sĩ sáng tác bài thơ có hồn đó đã ban ơn cho nhân loại, cho
người yêu thơ cơ hội được đọc, nghe tiếng người từ con người đích thực. Tôi xin
phép được mượn 2 câu ca dao nói về Phúc, Nghiệp của đạo Phật (tôi sửa lại câu
thứ 2) để nói đến cái phúc của thi sĩ khi cống hiến cho đời một bài thơ như thế:
Dù xây chín
đợt phù đồ
Không bằng
viết được Bài Thơ Có Hồn. (4)
Và để đạt được
cái Phúc lớn lao ấy Vần (vị ngọt của thơ ca) đã đóng góp một phần công sức
không nhỏ.
Phạm Đức Nhì
Chú Thích:
1/ Đều là đại
diện của Chủ Nghĩa Hiện Sinh
Tác phẩm tiêu
biểu:
Jean
Paul Sartre: La
Nausée (Buồn Nôn)
Albert
Camus: L’Étranger (Kẻ Xa Lạ)
2/Ba tầng cảm
xúc
a/ Tầng
1: Do câu chữ
b/ Tầng
2: Do thế trận của tứ thơ
c/ Tầng
3: Do trạng thái cao hứng, “nổi điên” của thi sĩ. Đây chính là Hồn Thơ (nằm
ngoài chữ nghĩa)
3/ Vâng, chính
tôi (PĐN) cũng đã từng làm thơ (ở VN) khi cái tôi văn hóa và cái tôi teo chim
cùng chiếm hữu thân xác mình.
4/ Nguyên văn
2 câu thơ là:
Dù xây chín
đợt phù đồ
Không bằng làm phúc cứu cho một người.
(Có bản viết “bậc” thay vì “đợt”)