Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Monday, December 5, 2016

NGHIỆP ĐỜI - Hồi ký của Lâm Bích Thủy


             
                               Tác giả Lâm Bích Thủy




                         NGHIỆP ĐỜI

 Bên cạnh những đặc điểm tạo nên nhân cách, tâm hồn, tình cảm thi sĩ trong ba tôi, còn có một mảng đời sống tâm linh, mà hiện nay, theo như anh Cao Kế - giáo viên dạy triết học Trường Đại học Qui Nhơn-bạn vong niên của Yến Lan cho rằng:
            “Có nhiều người quan tâm đến vấn đề này ở Yến Lan.
 Năm 18 tuổi, học xong bậc trung học, ba tôi kiếm sống bằng dạy tư tại chùa Ông. Tối đến, ông làm thơ. Thơ ông đăng trên các báo: Phụ Nữ, Tiểu Thuyết Thứ năm (TTTN). Có lẽ ông sinh ra là để làm thi sĩ. Cái từ thi sĩ” đã gieo vào lòng ông nỗi háo hức tiến sâu vào thế giới của văn chương là vậy! Có nơi nào hơn để ông giải bày tâm tư của mình như nơi này?!.
   Khởi đầu của nghiệp Văn là :
“Năm 1937 chúng tôi “Yến Lan và Chế Lan Viên” đã ra được một tạp chí viết đẹp, khổ lớn, lấy tên “Tiếng Địch” anh Phạm Huy Thông ở bên Pháp có viết thư về khen. Bọn tôi in “Tiếng Địch” ở Sài Gòn nhưng Tòa soạn lại đặt ở thị trấn Bình Định. Tôi là người chủ yếu lo bài vở in ấn, nhưng Tiếng Địch chỉ ra được một số (1) Lúc đang chuẩn bị cho ra số (2) thì kẹt về tài chính nên dừng lại. Tôi nhớ số đầu có in thơ Nguyễn Xuân Sanh, Xuân Diệu, và dường như có Huy Cận nữa.”

  Một bài báo khác viết “It lâu sau chia tay “Tiếng Địch” Yến Lan cùng Phạm Huy Thông, Xuân Diệu, Chế Lan Viên xuất bản tờ “Lính Thủy”. Ông đã gửi tờ báo này cho Tổng trưởng Bộ Giáo dục lúc bấy giờ, là Phạm Quỳnh như là để trình vào làng báo biết rằng tại Thành Đồ Bàn Bình Định cũng có các văn sĩ đầy tài hoa không kém các văn sĩ ở các đô thị lớn.
 Những tác phẩm lần lược ra đời.
- Giếng Loạn – Tràn Bờ                  (gồm 25-28 bài thơ)
- 2 tập Kết Giao                             (gồm 45 bài thơ) 
- Đọng Biếc                                   (gồm 30 bài thơ)
- Bóng giai nhân - năm 1941      (kịch thơ)
- Gái Trử La, Bánh xe luân hồi   (kịch thơ)
- Nổi tiếng với tập thơ Bến My Lăng  (20 bài). Tập thơ chưa được in mà đã nổi tiếng bởi lời giới thiệu của Chế Lan Viên:         

   “Bến My Lăng” Tập thơ đầu của Yến Lan:
   Trong ngôi chùa ấy. Có những hoa cúc để thu đến, nở vàng. Và những hoa lan để xuân về, đơm ngọc. Và một cổ thụ, mỗi lúc đông sang, lại tờ tờ gieo lá xuống đường, thư xanh lẫn với thư vàng, vàng xanh cũng phiêu lưu trong suối gió. Và nhà thơ trong chùa ấy. Bình tĩnh như là hoa bình tĩnh rụng, gửi vào đời những lời thơ nhỏ như chiếc lá, những giấc mộng, lớn không qua nổi cánh hoa, thơm ngát như hoa, và xinh xinh như lá.
  Một tiếng cười lạc trong buổi sớm, một tiếng võng đưa trong một buổi chiều, vài giọt mưa đọng trên giây thép, đôi nét như mộc mạc đọc trên bến cát mờ…ấy đấy, nghĩa lý gì đâu, bao nhiêu bức tranh rời rạc đó.  Nhưng vào đây chúng bỗng nhiên mang một nỗi buồn gì êm dịu, một sự tưởng nhớ gì nhẹ nhàng, một thứ ánh sáng gì im mát.
 Ở đây, không nhìn thấy góc cạnh của cuộc đời, cũng không có khói sương của xứ mộng, và người muốn tìm hãi hùng trong địa phủ sộ e “mắc cạn giữa vườn hoa. Đây là, nói làm sao bây giờ - sự thực thu nhỏ lại, vô cùng nhỏ lại, cho đến mức người ta có thể lẫn nó với Mơ – Màng.
 Cũng ở đây, người ta thấy sự giản dị của những câu ca dao, vẻ hiền hòa bao khúc hát cổ, một cái gì thân mật, tuy rằng mới lạ với chúng ta, như mặt trăng đã có tự muôn đời, hôm nay vẫn còn gây thơ mộng. Một cái gì ửng sáng ở Phương Đông. Hình như mặt trời sắp mọc. Không hình dung như mặt trăng thì đúng hơn.                               Số 30/11/5/1939

   Ngoài thơ, ông còn có các truyện ngắn như:
Gốc khế bên đường, Chó củi, Tiếng gọi xe ban đêm, Mẹ ơi, chim bồ câu của ai, Ông lão bán cò, Chiếc áo rách, Nhớ trường, và rãi rác những cảo luận trên các Tạp chí khác. Những sáng tác của ông giai đoan 1930-1945, hầu như bị thất lạc, chỉ còn lại “Bóng giai nhân, Gái Trữ La”.

Và làm nghề thầy giáo:  
Theo ba tôi: 
“Khoảng năm 17-18 tuổi; lúc đó, tôi dạy tư ở nhà. Học trò lóc nhóc đủ hạng. Hàng tháng học phí mỗi đứa dăm sáu hào. Nhưng thu tiền rất khó và phiền phức, nhiều đứa nghèo quá tới học không. Nhà có mảnh vườn nhưng tôi chẳng biết làm gì, túng thiếu. Thơ tôi đăng đều trên báo Phụ Nữ, Tiểu Thuyết thứ Bảy. Tết đến đọc thơ mình trên báo, chẳng có một xu dính túi, chứ đâu sướng như bây giờ. Các báo hồi đó nghèo quá mà cũng là bạn hữu văn chương cả. Tôi nhớ có lúc anh Minh Vĩ ra tờ báo “Phụ Nữ Hà Nội” tôi và Chế Lan Viên thường xuyên viết giúp. Tôi lấy bút danh là Xuân Khai còn Chế Lan Viên thì ký tên Kiểm Tịnh Chi.”
  Có tài liệu cho biết:
  Vào những năm 1930-1940, trên văn đàn có hai tờ tạp chí: gồm Tiểu thuyết thứ Bảy và Tiểu thuyết thứ Năm .
Tờ TTTB, xuất bản năm 1933. Tờ TTTN xuất bản  năm 1937. Mỗi số có 24 trang, kích cở 32cm x 24cm  (những số đặt biệt lên đến 32 trang)
 Thời kỳ đầu do ông Lê Tràng Kiều làm chủ bút, Đỗ Phồn là thư ký tòa soạn; các ông Phạm Văn Kỳ (tức Kỳ Pa), Nguyễn Tuân, Vũ Trọng Phụng và một số cây bút khác như Yến Lan, Vũ Trọng Can, Thanh Tịnh, Quỳnh Giao, Anh Thơ, Mộng Tuyết.. là cộng tác đắc lực cho tờ báo.
  Phần lớn các cộng tác viên gửi báo đăng bài của mình rồi nhận báo biếu để đọc cho vui chứ không ai nghĩ đến nhuận bút. Chỉ có anh em ruột Trúc Đường và Nguyễn Bính, người Nam Định được tòa soạn cấp cho mỗi người, hàng tháng 5đ Đông Dương để sống và viết cho báo. Còn khá giả như Đàm Quang Thiện, anh em Phạm Huy Thông, Phạm Huy Thái-con chủ hiệu vàng Chấn Hưng, thì khi nào báo có tiền, nhờ món quảng cáo nào xôm tụ thì mời họ đi ăn một bữa là quá lịch sự rồi.                              
 Vậy, công bằng mà nói - đó chính là sự đóng góp có ý nghĩa của các nhà văn, nhà thơ cho cuộc sống đương thời, khẳng định khả năng biểu đạt phong phú của ngôn ngữ Việt cũng như khẳng định sự phát triển thề loại văn chương lên một bước mới, nhiều sức chinh phục.   
 
  Nhạc sĩ La Nhiên (tức Nguyễn Liên) con trai danh cầm đàn Tranh, nổi tiếng những thập niên 1950.. viết:
  “Hồi ấy, theo gợi ý của Ban biên tập Báo “Phụ Nữ Hà Nội” đã có một giai đoạn cả Chế Lan Viên lẫn Yến Lan buộc lòng phải đổi giới tính trong bút hiệu của mỗi người. Kiều Tịnh Chi, hoặc Kiều Linh Chi là bút danh của Chế Lan Viên, còn Yến Lan mang bút danh Cô Yến, hay Thọ Lâm, những “nữ” tác giả này không mấy chốc “mê hoặc” được bạn đọc bốn phương của báo “Phụ Nữ Hà Nội” qua các chuyên trang “Phụ nữ xưa và nay”, “Phụ nữ Phương Đông” với quyền bình đẳng” ..  Không lâu sau, trên mặt báo quen thuộc này, bỗng xuất hiện và khoe sắc với một bút danh nữ mới toanh: “Kiều Thu Ngân-Phạm thị Ngàn” ở chuyên mục “Người Nội Trợ”
 Hai chàng thi sĩ nọ “suy ta ra người” nghĩ rằng chắc cũng là bút danh của một anh chàng nào đây và không bận tâm tìm hiểu “nàng Kiều” này làm gì… Bỗng một hôm, Chế Lan Viên đến nhà Yến Lan, đưa cho ông xem trang thơ của Báo “Phụ Nữ Hà Nội” với bài thơ của Kiều Thu Ngân, đề tặng đích danh “Cô Kiều Tịnh Chi tức Chế Lan Viên. Bài thơ “Khuyết đề”. Có hai câu được ông Minh Vĩ bình rằng: 
 
Tháp cao gió phổ Điêu tàn nhạc
Thành rộng mưa đan Giếng loạn thơ

   Nếu “Điêu tàn” là tập thơ đầu đời của Chế Lan Viên thì “Giếng loạn” cũng chính là “chùm thơ khắc tâm” xuất sắc của Yến Lan. Cho nên “Tháp cao” sánh với “Thành rộng” là quá cân bằng lại còn thêm “Gió phổ điêu tàn nhạc” sánh với “Mưa đan giếng loạn thơ” thì còn nơi nào trong “Xứ thơ” này lộng lẫy hơn? Chưa hết, ông Minh Vỹ còn thêm “Kiều Thu Ngân” có những lời ca ngợi như xoáy vào tim của hai tài năng thơ mà nàng ta đang vô cùng mến mộ:
Làng thơ nổi tiếng nhất xưa nay
Tứ hữu Bàn Thành có những ai
Thử đến lầu thơ nhìn tận mặt
Hiện hữu hai chàng –Thơ vắng hai...

  Trong khi ở Bình Định, Yến Lan và Chế Lan Viên đang phân vân về bút danh này, thì tại Hà Nội, ông Minh Vĩ mang một thắc mắc có tính chất tự vấn bản thân “Chẳng lẽ Chế Lan Viên tự đề tặng cho chính mình?” Điều đó khó có thể xảy ra, nếu như vậy sẽ mất uy tín của một nhà thơ tầm cỡ như anh ta? Vì vậy ông đã khá vất vã và mất thời gian để tìm hiểu vụ này cho ra nhẽ. 
 Cuối cùng, các nhân viên trình cho ông một bảng lai cảo của tác giả Kiều Thu Ngân-Phạm thị Ngàn, được lưu giữ từ nhiều năm trước. Tác giả gửi đến Ban biên tập báo PNHN từ làng An Thái, phủ An Nhơn-tỉnh Bình Định, ngày…tháng…năm 1938, trong đó nổi bật mấy câu: 

Cửa Đông rẽ trái Trạm Nha
Cửa Đông rẽ phải dốc Nhà Tầm cao                                
Tìm người như thể tìm sao
Trái phải không gặp thơ lầu vắng hoe

                                                                Lâm Bích Thủy

No comments: