Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Monday, February 29, 2016

LỚP HỌC NIỀM VUI - Phóng sự của Quốc Nam

VNQT đăng lại phóng sự của tác giả Quốc Nam đã đăng trên tuoitre online (10/01/2016), có bổ sung thêm video clip do ông Hoàng Đằng, người trong thân quyến cô giáo Lê Nam Linh gửi qua email.


                          LỚP HỌC NIỀM VUI 




Nguồn:  http://tuoitre.vn/tin/giao-duc/20160110/lop-hoc-niem-vui/1035562.html



TT - Cuối buổi chiều chủ nhật, sân Trường THPT Lê Lợi (TP Đông Hà, Quảng Trị) vắng lặng bỗng râm ran tiếng cười nói của học sinh. 

Chỉ trong khoảng 10 phút, hơn 60 học sinh vào ngồi ngay ngắn trong phòng học. Góc trên cùng của tấm bảng đặt giữa lớp ghi mấy chữ lớn “Lớp Niềm Vui”.
Tính riêng năm học này, đây mới là buổi học thứ tư của lớp Niềm Vui. Mỗi tuần lớp chỉ học đúng hai giờ chiều chủ nhật. Nhưng không vì thế mà lớp ít người. Sau mấy phút để học sinh ổn định chỗ ngồi, cô Nam Linh mới lật danh sách lớp đã đăng ký lên xem, rồi đưa cho lớp trưởng điểm danh.
“Chỉ dạy cách, không dạy cái”
Trong danh sách đăng ký tuần trước chỉ có 58 người, nhưng hôm nay đếm lui đếm tới số người trong lớp vẫn thấy dư ra bảy học sinh. Hóa ra là có mấy bạn mới nghe tin và đến học.
Cô Linh nhờ mấy bạn mới đến qua phòng khác bưng thêm bàn ghế về ngồi và không quên nhắc cả lớp: “Bạn nào vắng ba buổi thì coi như không được học nữa nhé. Để dành chỗ cho các bạn khác cũng đang rất muốn học”.
Cô Linh mở đầu buổi dạy bằng một câu chuyện về sách. Cô trích một đoạn lấy trên mạng Internet nói về ý nghĩa của việc đọc sách và in cho mỗi học sinh một tờ. Kèm theo đoạn trích này là các câu hỏi liên quan như cách diễn đạt, chủ đề và các thao tác lập luận của tác giả trong đoạn trích.
Kế tiếp, cô Linh cho mỗi học sinh tự viết mấy dòng quan điểm cá nhân về ý nghĩa việc đọc sách đối với giới trẻ.
Sau đó, cô Linh tiếp tục bài giảng về sách khi đưa ra câu chuyện về anh Nguyễn Quang Thạch, một cử nhân tiếng Anh vừa đi bộ xuyên Việt từ Hà Nội vào TP.HCM để vận động góp sách cho chương trình “Sách hóa nông thôn Việt Nam”. Đây là chương trình xây dựng hàng ngàn thư viện sách ở các vùng nông thôn để mọi người dân Việt Nam đều có thể tiếp cận được tri thức.
Sau thông tin này, mỗi học sinh lại được nói lên cảm nhận của riêng mình về câu chuyện nói trên.

        
Cô Linh say mê truyền giảng cách học văn cho học trò tại lớp Niềm Vui vào mỗi chiều chủ nhật - Ảnh: Quốc Nam
Theo cô Linh, vì đây là lớp học đặc biệt nên cô chỉ dạy học sinh về “cách làm văn” chứ không dạy theo từng tác phẩm cụ thể như trong chương trình phổ thông. Hay như cách nói của cô là “chỉ dạy cách, không dạy cái”.
Vì thế, phương pháp của cô Linh là vào mỗi buổi học cô đều giới thiệu cho học sinh một đoạn văn bất kỳ, rồi tập cho các bạn cách cảm nhận đoạn văn đó. Mỗi học sinh đều sẽ được đứng lên nói suy nghĩ của mình về điều ẩn chứa trong đoạn văn, sau đó cô Linh sẽ đưa ra những hướng cảm nhận hợp lý nhất.
Nói thì đơn giản vậy nhưng hiệu quả đối với học sinh thì không ngờ. “Cách cô Linh dạy văn và yêu văn khiến tụi em yêu “lây” môn văn. Mới mấy buổi học nhưng tụi em đã được cô trang bị khá kỹ về kỹ năng cảm nhận một đoạn văn. Chỉ cần nắm được phương pháp này thì với bất cứ tác phẩm nào gặp trong chương trình, tụi em cũng có thể có những cảm nhận đúng hướng được” - Uyên, một học sinh lớp 10 đang theo học tại lớp Niềm Vui, nói.
Chỉ cần yêu văn, ai học cũng được
Cô Linh kể rằng trong lớp Niềm Vui của cô cũng có một vài bạn hoàn cảnh đặc biệt. Có bạn đến từ huyện Triệu Phong cách trường mười mấy cây số, mồ côi cả cha lẫn mẹ, cũng đến xin được theo lớp từ buổi đầu.
Tuy nhiên, theo cô Linh, lớp Niềm Vui không chỉ để cho những học sinh khó khăn học mà bất cứ ai cũng có thể tham gia, chỉ cần đó là người thích học văn và cần học văn.
Ngoài lớp Niềm Vui, mỗi tuần cô Linh còn dạy hai lớp học thêm môn văn tại Trường THPT Lê Lợi. Và cách dạy của cô ở hai lớp hoàn toàn giống nhau. Không hề phân biệt lớp học thêm và lớp miễn phí. “Ai thích học lớp nào cũng được. Miễn thích học văn là tui đều mừng” - cô Linh chia sẻ.
Cô Linh đưa cho chúng tôi xem qua danh sách lớp Niềm Vui. Trong danh sách này, không chỉ có học sinh của Trường Lê Lợi nơi lớp đang mở mà còn có nhiều học sinh ở những trường khác cũng đến học.
Cô Linh đưa công khai thông tin về lớp lên Facebook để học sinh nào cũng biết và đến học. Học sinh trong lớp Niềm Vui có bạn đang học lớp 12 và cũng có nhiều bạn đang học lớp 11, lớp 10.
“Ban đầu cũng ngỡ là lớp này mở ra chỉ cho các bạn khó khăn không đi học thêm được, sau em mới biết cô Linh dạy cho bất cứ ai thích học” - Nguyễn Thanh Mây, học sinh đang học tại lớp Niềm Vui, kể.
Hơn 20 năm trong nghề dạy học, lại dạy môn học nghiêng nhiều về cảm xúc, cô Nam Linh trăn trở khi thấy học sinh càng lúc càng xa các môn học “nhiều chữ” như văn, sử, địa. Cô thường mang tới lớp Niềm Vui nhiều câu chuyện của chính gia đình mình, hoặc mình là người trong cuộc, kể cho học sinh nghe để các em có thêm những góc nhìn thực tế hơn về cuộc sống, về cách đối nhân xử thế hợp lý hợp tình trong từng trường hợp cụ thể.
Với cô Nam Linh, việc dạy về tác phẩm này, tác phẩm nọ không quan trọng bằng việc dạy đạo đức, lối sống cho học sinh. Đó cũng chính là văn trong cuộc sống.
Ngoài giờ dạy chính khóa, cô Nam Linh còn bận rộn với hai lớp dạy thêm, thời gian của cô gần như kín mít. Nhưng cô vẫn ưu ái dành cho lớp Niềm Vui một góc nhỏ trong đời mình. Cô coi đó như cách tạo niềm vui cho chính mình.
Một học sinh cũng dạy
Nhắc đến cô Nam Linh, nhiều giáo viên Trường THPT Lê Lợi đều nhớ câu chuyện mới xảy ra nửa năm trước. Đó là chuyện lớp phụ đạo văn (miễn phí) của cô Nam Linh cho học sinh trong trường, trước khi thi học kỳ II năm học 2014-2015.
Lớp phụ đạo này chỉ có đúng... một học sinh! Suốt mấy tuần liền, lớp một cô một trò vẫn miệt mài dạy và học cho đến mãi sau, khi cô Linh cập nhật câu chuyện này lên mạng xã hội Facebook để kêu gọi học sinh đến học. Sau đó, mới xuất hiện thêm học sinh thứ hai, thứ ba...
Hỏi về lớp học không kém phần đặc biệt này, cô Linh chỉ cười: “Một người mà cần học, tui cũng dạy như thường rứa thôi”.
Người yêu nghề đến kỳ lạ
Cô Nguyễn Thị Hồng Khuyên, hiệu trưởng Trường THPT Lê Lợi, cho biết vợ chồng cô Lê Nam Linh đi lên từ hai bàn tay trắng. Sau đó, bằng nghề dạy học mà vợ chồng cô có được một gia đình nhỏ hạnh phúc đầm ấm, nên cô Linh muốn quay lại làm điều gì đó cho học sinh. Đó có thể là lý do ra đời của những lớp dạy văn miễn phí mà cô Linh mở liên tục trong những năm qua.
Theo cô Khuyên, cô Linh là người yêu nghề đến kỳ lạ. Cô như say đắm trong nghề dạy văn. Vậy nên khi cô Linh đề xuất nhà trường cho mượn phòng để mở lớp dạy văn miễn phí, nhà trường đồng ý ngay và ủng hộ luôn vấn đề điện nước cho lớp này.
                                                                     Quốc Nam
READ MORE - LỚP HỌC NIỀM VUI - Phóng sự của Quốc Nam

CHO EM LÀ MÂY TRÔI...- Trần Mai Ngân



                   Tác giả Trần Mai Ngân




CHO EM LÀ MÂY TRÔI...
Cho em thành đám mây trôi
Che mặt trời cho anh bớt nóng
Nắng cháy rát trưa nay - nghĩa trang...
Em muốn là đám mây lang thang, lang thang 
Theo anh tận cuối trời
Theo anh suốt cả đời !
         Trần Mai Ngân

READ MORE - CHO EM LÀ MÂY TRÔI...- Trần Mai Ngân

Sunday, February 28, 2016

CHÙM THƠ HOÀNG YÊN LYNH



                Tác giả Hoàng Yên Lynh



TÌNH SÔNG HIẾU  
                                
Dòng sông bên lở bên bồi
Hai ta đã lỡ cả đời trái ngang
Sông Hiếu ơi buồn mênh mang
Tôi về bến cũ đò ngang vắng người
Chờ tôi chỉ nắng vàng rơi
Bâng khuâng tôi với tình tôi ngậm ngùi
Ngày xưa má thắm môi cười
Câu thơ viết mãi bao lời đắm say
Sơn khê bạc áo sờn vai
Rượu nồng chưa cạn mà say tình đời
Về đây sông Hiếu lở bồi
Hỏi người chỉ có đò trôi hững hờ
Tình xưa đọng lại vần thơ...


                    Hoàng Yên  Linh


 MƯA BẢO LỘC
                                   
Bất chợt cơn mưa chiều Bảo Lộc
Hàng hiên ai đứng ngóng mưa bay
Có phải người xưa năm tháng cũ
Bờ vai nghiêng gió tóc mây cài.

Ký ức gọi tình về bến mộng
Những chiều loang nắng lối thu xưa
Đường lên Tịnh Xá vàng gió lộng
Ngân tiếng chuông buồn vương ý thơ..

Tiếng mưa chạnh lòng hương kỷ niệm
Khúc hát ân tình ai nhớ không
Để rồi tan tác trời binh lửa
Bỏ lại mưa buồn bên phố Đông.

Bất chợt ngày xưa về gọi nhớ
Ngỡ ngàng tóc đã úa pha sương
Ai ngóng mưa bay chiều phố nhỏ
Có người hiu quạnh bước tha phương.


                          Hoàng Yên  Linh

                             B'lao 8.2015

READ MORE - CHÙM THƠ HOÀNG YÊN LYNH

LỜI YÊU CHO EM - Thơ Nhật Quang


           Nhật Quang


LỜI YÊU CHO EM

Còn lời yêu nào nữa cho em ?
Khi một ngày trái tim thành sỏi đá
Cạn lời yêu, khi nhịp thở không còn
Để thiên thu ta mãi gọi tên em
Ta yêu em như muôn vì sao đêm
Trong bầu trời bao la vô tận
Ai đếm được khi chưa từng cất lời yêu
Khi chưa từng biết thương, biết nhớ
Ôi ! Yêu em  trái tim ta rạn vỡ
Ôi ! Tâm can sầu đắng xẻ đôi hàng
Để mi khép từng đêm ta khóc vội
Trong âm thầm,ôm dáng mộng đơn côi
Ta yêu em khoảnh khắc thật chơi vơi
Giữa hai bờ, yêu và xa cách

Em ơi ! Dẫu tình còn bao thử thách
Đến trọn đời, anh nguyện mãi yêu em.

                                   Nhật Quang
                                    (Sài Gòn)
READ MORE - LỜI YÊU CHO EM - Thơ Nhật Quang

THUYỀN TA BƠI LẶNG TRONG DÒNG MẮT EM - Phạm Đức Nhì



         Tác giả Phạm Đức Nhì




 THUYỀN TA BƠI LẶNG TRONG DÒNG MẮT EM

Qua bài viết Tản Mạn Về Vai Trò Của Ý Tứ Trong Thơ tôi nhận được một số phản hồi; khen chê đủ cả. Tôi chú ý đến thư mở của nhà thơ Nguyễn Khôi bàn khá chi tiết về tứ và ý thơ. Có vài điểm tôi đã trả lời ngay.  Riêng ý kiến của ông về 2 câu thơ của Lưu Trọng Lư thì tôi thấy hay hay nên nẩy ra ý định “để dành” để viết một bài ngăn ngắn “lý sự cùn” với ông với hy vọng nhà thơ mà tôi rất có cảm tình và bạn đọc có thể “mua vui cũng được một vài trống canh”.  Ông NK viết như sau:
Ý là muốn nói đến sự say đắm si mê của chàng với nàng (đó mới là chung chung chưa rõ ràng), chỉ đến khi Thi sĩ thể hiện bằng hình tượng thơ cụ thể :Mắt em là một dòng sôngThuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em
(Lưu Trọng Lư)
thì đó đã là một TỨ THƠ độc đáo.

Tôi mày mò tra cứu và xin trình diện bạn đọc cả bài thơ của Lưu Trọng Lư.
Trăng lên
Vừng trăng lên mái tóc mây
Một hồn thu tạnh, mơ say hương nồng
Mắt em là một dòng sông
Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em.

Hai câu đầu cho biết cô gái đang thả hồn vào mộng vào  mơ trong một đêm trăng sáng. Chắc tác giả cũng ở gần đâu đó cho nên mới có 2 câu thơ mà nhà thơ NK đã cho là “sự say đắm si mê của chàng với nàng”
Mắt em là một dòng sông
Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em.
và cho đó là một tứ thơ độc đáo.
Tôi hoàn toàn đồng ý với nhà thơ lão thành về nhận định đó. Tứ thơ hay thật. Nhưng ý thơ có phải nói về “sự say đắm si mê của chàng với nàng” hay không thì còn phải xem lại. Tác giả đã sử dụng thủ pháp Show, Not Tell – không tiết lộ tâm ý của mình mà chỉ cung cấp tình tiết cần thiết để nếu người đọc dựa vào đó tiếp tục mạch suy luận thì sẽ tự khám phá và cảm nhận được cái tâm ý đó.
Theo câu cuối của bài thơ thì cô gái đang thu hút cả bóng hình chàng trai vào đôi mắt - như một dòng sông - của mình, “cho phép” chàng được bơi lặng trong dòng sông ấy, nghĩa là nàng đang nhìn chàng say đắm. Dựa vào cái nhìn say đắm ấy người đọc có thể kết luận mà không sợ sai lầm: tác giả đã nhận biết và đã dùng tài thơ của mình khoe với mọi người “Nàng đã yêu ta đắm say”.  Cũng có thể - để hai người đến được với nhau trong khung cảnh thơ mộng đó - chàng cũng đã có ít nhiều tình cảm với nàng nhưng mạch suy luận của tứ thơ ở đây dường như chỉ dẫn người đọc đi về một hướng: tình yêu tha thiết của nàng với chàng. (1) Như vậy ý của bài thơ không phải là “sự đắm say si mê của chàng với nàng” như nhà thơ Nguyễn Khôi và không ít những người yêu thơ khác lầm tưởng.
Với cách hiểu bài thơ Trăng Lên như vậy tôi biết mình sẽ bị đứng ở phe thiểu số, yếu thế và cô độc. Với phép ẩn dụ thì khi đã bắt được tứ thơ, tùy theo óc tưởng tượng, khả năng liên tưởng và trực giác thơ ca của mình, mỗi người đọc có thể sẽ cảm nhận ngụ ý của bài thơ mỗi cách khác nhau (có khi khác với tác giả). Nhưng với thủ pháp Show, Not Tell tác giả đã phát cây dọn đường; nếu người đọc tiếp tục theo mạch suy luận một cách đúng đắn thì con đường đó chắc chắn sẽ dẫn họ đến với tứ thơ (theo đúng ý của tác giả). Không có con đường nào khác và không thể có điểm đến nào khác.
Tôi chợt nghĩ đến một câu hát “Và ngày gặp em anh xin ngồi tù trong đáy mắt thơ ngây”. (2) Trường hợp này chàng “xin ngồi tù trong đáy mắt” nàng tức là chàng đã yêu nàng và xin được nàng yêu. Còn nàng nếu cho phép chàng ngồi tù trong đáy mắt mình có nghĩa là nàng cũng đã chấp nhận tình yêu của chàng.
Bài thơ Trăng Lên của Lưu Trọng Lư có một khác biệt lớn với câu hát trên. Chàng có yêu nàng hay không? Khi bước vào khung cảnh bài thơ câu hỏi ấy chưa có câu trả lời chắc chắn. Cho nên nếu dựa vào hai câu thơ:
Mắt em là một dòng sông
Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em.

để kết luận ý của bài thơ là “sự say đắm, si mê của chàng với nàng” thì đó là một kết luận không đúng. Ý của bài thơ chính xác ra phải là “Làng nước ơi! Người con gái ấy đã yêu ta đắm say”.
League City 02/ 2016
Phạm Đức Nhì
Nhidpham @gmail.com
Sẵn sàng đón nhận góp ý, phê bình của độc giả.

Chú Thích:
1/ Cũng có thể thi sĩ Lưu Trọng Lư muốn bày tỏ “sự say đắm, si mê của ông với cô gái” nhưng lầm lẫn “mắt ta” với “mắt em” chăng?
2/ Trả Lời Thư Em (Trầm Tử Thiêng)

Phần Đọc Thêm

Thủ pháp Show, Not Tell có 3 đặc tính sau đây
     1/ Không tiết lộ ý chính của câu thơ (hoặc bài thơ). Dành chỗ cho người đọc theo mạch suy luận tự khám phá và cảm nhận.
Thí dụ:
  • Táo nhà tôi trồng đấy. Ối giời ôi! Ngon kinh khủng. Chị ăn đi thì biết.
  • Táo nhà tôi trồng đấy. Chị ăn thử nhé. (Ngon hay không thì chị sẽ tự biết sau khi ăn).
Trong câu sau người cho táo đã dành chỗ cho người ăn táo tự cảm nhận.
     2/ Không kể lại tóm tắt, dùng những tĩnh từ, trạng từ “nặng ký”. Phải đi vào hoàn cảnh, tình tiết cụ thể, thực tế, sống động để người đọc hiểu được tâm tình của mình qua giác quan, cảm nghĩ, cảm giác, hành động (senses, thoughts, feelings, action)
Thí dụ:
  • Sắp đến giờ đi phỏng vấn để nhận việc làm đầu tiên trên nước Mỹ. Tôi cực kỳ lo lắng.
  • Buổi trưa vợ tôi nấu cháo vịt, món tôi thích nhất. Tô cháo trước mặt tôi nóng hổi thơm lừng, mỡ hành nổi váng vàng được điểm phía trên những cộng hành hoa trông thật bắt mắt. Rồi lại còn đĩa thị luộc thái mỏng, lòng mề và mấy quả trứng non đặt bên cạnh chén mắm gừng. Nhưng tôi chỉ uể oải gắp vài miếng thịt, húp vài muỗng cháo rồi lặng lẽ đứng lên. Vợ tô biết ý đặt ly cà phê đen nhánh thơm ngào ngạt trên bàn nước nhưng tôi chỉ nhấp một ngụm rồi vào phòng thay chiếc áo sơ mi mới mặc đã ướt đẫm mồ hôi và cầm chìa khóa ra xe. Một tiếng đồng hồ nữa là cuộc phỏng vấn nhận việc làm đầu tiên của tôi trên nước Mỹ.
Phần trên là kể lại tóm tắt (Tell). Phần dưới là Show, Not Tell
     3/ Mọi suy luận đều dẫn đến đúng ý của tác giả.

                                                                   Phạm Đức Nhì

READ MORE - THUYỀN TA BƠI LẶNG TRONG DÒNG MẮT EM - Phạm Đức Nhì

TÂM SỰ CÙNG ĐẶNG XUÂN XUYẾN VỀ TỬ VI - Nguyễn Thanh Lâm



                        Nguyễn Thanh Lâm


TÂM SỰ CÙNG ĐẶNG XUÂN XUYẾN VỀ TỬ VI

Cơ duyên trời đất tôi biết Đặng Xuân Xuyến từ năm 1999, năm tôi ra tập thơ “Những Bình Minh Chiều” nhờ Xuyến bán giúp. Rồi đến năm 2001 tôi ra tập thơ “Thơ Tình Phố Cổ” tôi lại nhờ Xuyến bán hộ. Tôi đến nhà sách của anh ở đường Láng khi ấy anh đang xem tử vi của anh và số tử vi của vợ anh. Xuyến không ngờ tôi là người nghiên cứu sâu và ứng dụng tử vi đã lâu năm, tôi nói về đời anh, về tính cách của vợ anh và mối tình của anh với vợ sẽ tan vỡ làm Xuyến giật mình. Nhưng bản chất của Xuyến là người tốt, thương vợ thương con hết mình, anh tin vào tình yêu và lòng tốt của mình nên lúc ấy Xuyến chỉ ngờ ngợ chưa tin. Thời gian trôi đi… những điều tôi nói đã thành sự thật, khi con người gặp cảnh đau lòng mới ngộ ra và tự hỏi mình là ai?
Con người có số phận thật chăng và Xuyến đã miệt mài nghiên cứu tử vi để tự tìm hiểu cuộc đời của mình. Rồi anh viết sách về tử vi, trong cuốn sách anh trích lời bàn của tôi rất công tâm và cuốn sách bán rất chạy. Tôi đã tâm sự cùng Xuyến: Đời tôi cũng nhiều thăng trầm và ngay từ nhỏ đã được những người thân trong gia đình truyền thụ về tử vi, đến năm 1979 đi bộ đội tôi có duyên gặp vị hòa thượng ở chùa Thiên Phúc làng Trà Phương - Đồ Sơn - Hải Phòng chọn tôi là người truyền nhân, hòa thượng đã chỉ cho tôi rất căn bản về tử vi - kinh dịch - bốc phệ, và tôi vốn đã say mê lại đọc thêm nhiều sách, qua năm tháng tử vi đã ngấm dần vào máu của tôi.
Nay Đặng Xuân Xuyến đề nghị tôi viết về tử vi, đăng lên trang mạng cá nhân của anh để bạn đọc cùng tham khảo, chiêm nghiệm. Tôi trân trọng Xuyến là người đã nghiên cứu và viết sách về tử vi mà giãi bày tâm sự như một người bạn cùng đam mê môn khoa học tử vi này.
Tử vi thật mênh mông, các sách viết về tử vi rất nhiều, các tác giả viết về tử vi thường nói về căn cốt của tử vi, nhưng đều có kiến giải khác nhau, mỗi người giỏi về một mặt. Căn cốt và thời vận - số của mỗi tác giả, trời cho mỗi người một tạng, cũng như trong y khoa có bác sỹ chuyên về tim mạch, có vị chuyên về ngoại khoa, nội khoa .v.v… Đọc sách tôi thường tìm ra chìa khóa mở ra sự thâm hậu của mỗi cuốn sách. Rút ở mỗi tác giả sự tinh hoa và nhìn rõ mặt khiếm khuyết của từng tác giả. Bởi thời họ sống, nhân sinh quan và tầm nhìn của họ khác nhau.
Có người chỉ nghiên cứu mang tính lý thuyết, có người bằng vốn đời, bằng thực nghiệm để bình xét về lá số. Cũng như thơ mỗi người một tạng khác nhau và hàng trăm năm mới có một thiên tài như Nguyễn Du, trời đã chọn Nguyễn Du là thiên tài.
Đọc sách để nắm được căn bản của khoa tử vi là chuyện cần, thuộc các hành của các sao trong tử vi, cách cục của tử vi… cũng là việc cần. Nhưng để linh hồn của các ngũ hành, các sao, cách cục thời vận ngấm vào máu mình là cần hơn. Phải đạt tới mức như Liệt Tử tự hỏi mình “Ta cưỡi gió hay gió cưỡi ta” thì mới khó. Đấy là cái đích vươn tới của người nghiên cứu và ứng dụng môn khoa học này.
Quan điểm của tôi là phải ứng dụng. Xem tử vi cho mọi người tôi thường nói: “Xem để tự biết mình là ai, khi thời vận tốt thì cần cố gắng. Khi thời vận kém nên cẩn trọng giữ gìn và vận động theo quy luật của riêng mình”.
Ai chẳng muốn giàu sang, quyền vị, vợ đẹp con khôn, nhà lầu xe hơi. Nhưng số có được hưởng cái khao khát ấy không là chuyện khác. Nếu số không được hưởng thì hãy bình tâm tự tin. Cho là đủ là ổn thì sẽ đủ sẽ ổn, không nên kỳ vọng sang giầu để mua lấy âu lo, thậm chí lại tự đưa mình vào vòng lao lý!
Xem tử vi và ứng dụng tử vi cho con người bằng tầm nhìn của xã hội hôm nay, xưa kia nghề nghiệp con người chỉ là Sỹ - Nông - Công - Thương - Binh. Nhưng ngày nay có nhiều nghề mới mà xưa không có. Thì các sao trong cung quan lộc cũng phải nhìn bằng con mắt mới.
Tình yêu và hôn nhân xưa kia bó hẹp trong truyền thống đạo đức, nhưng ngày nay nam nữ bình đẳng thì các sao trong cung phu thê cũng cần nhìn bằng con mắt thời đại.
Có thể nói: “Ứng dụng tử vi bằng tư duy mới”.
Người xem tử vi cũng cần nghiên cứu kinh dịch. Bởi kinh dịch là cha đẻ ra môn tử vi và nhiều môn học khác, thấu đáo về kinh dịch sẽ quyết đoán hơn khi luận giải lá số.
Xin kể: “Hàng xóm của tôi có ông thầy thuốc, ông đi khám bệnh cho bệnh nhân về tạt vào nhà tôi chơi. Nhìn sắc mặt ông có vẻ buồn, tôi hỏi ông “Hôm nay gặp ca khó chăng?”. Ông bảo: “Có bệnh nhân bị bệnh viện trả về mới gọi đến chữa, tôi đã bắt mạch thấy kém quá, có lẽ bó tay”. Tôi độn một quẻ dịch và bảo ông thầy thuốc: “Dù bệnh nhân bị bệnh viện trả về nhưng chưa thể chết được, ít nhất cũng phải 5 đến 6 năm nữa mới đi. Ông cứ chữa và đặc biệt cho thuốc mát (hành mộc) khí sẽ vượng lên, khí vượng lên thì huyết sẽ lưu thông và bệnh ổn dần.
Ông vốn biết tôi và tin tôi nên ông làm theo tôi và kết quả bệnh nhân 7 năm sau mới hết số. Đấy là ứng dụng bằng kinh dịch”.
Ôi ông bạn Đặng Xuân Xuyến của tôi ơi, bàn về tử vi thì mênh mông lắm, bàn đến bao giờ cho hết cái mênh mông. Sách vở chỉ là ngón tay chỉ trăng, hãy đến tận mặt trăng, hãy xét từng lá số cụ thể và ứng dụng. Nhập tâm từng lá số cụ thể và hãy xuất thần như nhà thơ tìm tứ, tìm ra linh hồn, chìa khóa mở cho từng lá số. Mỗi lá số có một chìa khóa mở riêng, không nên áp dụng lý thuyết máy móc đã định sẵn, cũng như con người không ai giống ai, kể cả sinh cùng năm tháng ngày giờ cũng khác nhau.
Ôi xem tử vi thật khó sao! Cần có bản lĩnh cao, và có tâm mới mong đắc đạo môn khoa học này.


Hà Nội, ngày 16 tháng 12 năm 2015
NGUYỄN THANH LÂM
Nhà thơ, nhà ứng dụng kinh dịch
Địa chỉ: Số 4, ngõ 179 Minh Khai
quận Hai Bà Trưng, tp Hà Nội.
Điện thoại: 0984787426


READ MORE - TÂM SỰ CÙNG ĐẶNG XUÂN XUYẾN VỀ TỬ VI - Nguyễn Thanh Lâm

Saturday, February 27, 2016

WIKIPEDIA - CÓ THỂ BẠN CHƯA BIẾT - Kha Tiệm Ly



                            Ảnh tác giả Kha Tiệm Ly




WIKIPEDIA -  CÓ THỂ BẠN CHƯA BIẾT

Tính đến thời điểm bây giờ (14 – 10 – 2014), Wikipedia là một trong 5 trang Web lớn nhất hoàn vũ. Hiện có 408.235 thành viên chánh thức trong 195 quốc gia với 287 ngôn ngữ khác nhau. Ngoài 408.235 thành viên chánh thức còn có 26 chuyên viên bảo quản, 3 nhân viên hành chánh và 215 robot thông minh nhất.

Mỗi ngày Wikipedia – Bách Khoa Toàn Thư Mở có  trên 150.000 người ở khắp nơi trên thế giới truy cập, tra cứu

Trang Web mở nghĩa là người viết được tự post bài viết của họ lên. Còn bài viết có được chấp nhận lưu trữ, tồn tại hay bị xóa bỏ là vấn đề khác.
Chính sự để người viết tự đưa bài lên khiến nhiều người hiểu lầm, mọi người đều có thể hiện hữu trên Wikipedia một cách dễ dàng. Thực tế thì không! Wikipedia có nguyên tắt việc LƯU và XÓA bài rất nghiêm ngặt.

Khi một ứng viên muốn gia nhập làm thành viên, hoặc một bài được post lên, đều có những thành viên được chọn lọc có cùng ngôn ngữ với người viết, tra cứu, kiểm soát tính xác thực một cách chính xác.

Ngoài những thành viên chọn lọc được chỉ định để phối kiểm và biểu quyết LƯU và XÓA, còn có 215 robot thông minh sẽ soi rọi khắp nơi để “vạch lá tìm sâu”. Điều nầy có thể chứng minh cho người đọc thấy tính xác thực về tiểu sử của thành viên và nội dung bài viết.
                                                                (Theo Wikipedia)

                                                                    Kha Tiệm Ly
                                                          (Thành viên Wikipedia)
-------------------
KHA TIỆM LY
99/5 Đinh Bộ Lĩnh Phường 2, tp Mỹ Tho Tiền Giang
Tel: 0987  701  952   -   01229  880  130
Email: 
khatiemly@gmail.com


READ MORE - WIKIPEDIA - CÓ THỂ BẠN CHƯA BIẾT - Kha Tiệm Ly

ẤM MÃI LỜI RU - Thơ Trúc Thanh Tâm

Tác giả Trúc Thanh Tâm


ẤM MÃI LỜI RU

Giữ trong đời cái chân chất yêu thương
Như gió chiều quê ôm lời ru mát rượi
Mẹ ta đó bộn bề trăm nỗi
Áo sờn vai nuôi ta lớn nên người!

Tôi vào đời lời ru mãi trong tôi
Thêm nghị lực trên bước đường đi tới
Tôi xa xứ mang lời ru chan chứa
Chợt bùi ngùi nhớ dáng mẹ già nua!

Lời mẹ ru đâu dễ phôi pha
Dẫu vết cắt thời gian làm tim tôi rỉ máu
Lời mẹ ru vượt ngàn giông bão
Đưa ta qua bến ấm cuộc đời!

Dẫn ta vào thời thơ ấu rong chơi
Để bay đến khoảng trời xanh mơ ước
Lời mẹ ru đồng lúa hương bát ngát
Tôi say sưa tắm mát nước sông đầy!

Chiếc cầu tre, vườn trái, cánh cò bay
Yêu biết mấy làng quê, chiều vương sợi khói
Men lối nhỏ vào đời, tôi chưa mỏi
Mỗi bước chân như dán chặt lời ru!

Đất nước ta qua hết cuộc mây mù
Đêm trăng sáng, giọng hò ai dìu dặt
Câu vọng cổ muồi tai ngây ngất
Không gian chìm trong nỗi nhớ chơi vơi!

Tôi nên người, nhớ mãi thuở nằm nôi
Dòng sữa mẹ chạy đều trong cơ thể
Hạnh phúc nhất khi mình còn mẹ
Được nghe lời trìu mến của cha!

Yêu quê hương, tình xứ sở, ruột rà
Bên ngôi trường nhỏ vang vang lời trẻ
Tôi nhìn lại tuổi thơ mình để nhớ
Lời ru buồn vượt mãi với thời gian!

Quê mẹ Bạc Liêu, 1974

TRÚC THANH TÂM

Mời nghe ca khúc ÂM MÃI LỜI RU, thơ Trúc Thanh Tâm, nhạc Phan Nghĩa, ca sĩ Ái Lê, xin bấm vào ĐÂY
READ MORE - ẤM MÃI LỜI RU - Thơ Trúc Thanh Tâm

Châu Thạch - Đọc NGỰA VỀ GIỮA CHỐN BỤI MÙ, thơ Thế Lộc

Thế Lộc



Đọc NGỰA VỀ GIỮA CHỐN BỤI MÙ, thơ Thế Lộc
                                            Châu Thạch

      Chúng ta, những ai yêu thơ, chắc chắn đã từng đọc hàng chục, hàng trăm bài thơ khóc cho sanh ly tử biệt, khóc cho người thân đã thành người quá cố. Trong những bài thơ đó có rất nhiều bài thơ hay, làm cho ta rơi lệ, nhưng khó tìm đâu ra một bài thơ làm cho ta vơi bớt đi bi luỵ trong lòng, đem đến cho ta niềm hy vọng một viễn cảnh tốt đẹp của người thân ở thế giới bên kia. Bài thơ “Ngựa về giữa chốn bụi mù’ của Thế Lộc mô tả hình ảnh người về thế giới bên kia như con ngựa quay về giữa chốn bụi mù là một tứ thơ độc đáo, diễn tả một ý thơ mới mẽ và mang vẽ đẹp tuyệt vời:

NGỰA VỀ GIỮA CHỐN BỤI MÙ
(Cho Dương Thế Kinh Luân)

Ngựa đã về chốn an nhiên
Hí vang rừng núi cửa thiền rộng thênh
Miên trường, sinh diệt mông mênh
Yên cương hạnh ngộ bồng bềnh thiên thu
Ngựa về giữa chốn bụi mù
Mưa tâm đã tình, nghìn thu rạng ngời
Nhịp chuông ai thả chơi vơi
Ngựa thiên cổ đã vể trời vãng sinh
                                     21.2.1016
                                      Thế Lộc

     Hình ảnh con ngựa dựng bờm tung vó phi nước đại khiến bụi mù tung lên cả một vùng là hình tượng oai phong, dũng mảnh và hùng tráng đã trở thành thông lệ cho bút pháp tranh ngựa từ ngàn xưa cho đến ngàn sau. Thế Lộc dùng hình ảnh nầy để miêu tả linh hồn con trai của mình đi về thế giới ngàn thu là một tư duy cách mạng, phá bỏ những câu thơ ai điếu bi luỵ từ xưa đến nay nhưng vẫn bày tỏ được không những tình yêu vô bờ bến của một người cha đối với con mình, mà còn tôn vinh được hào khí của linh hồn con trai đi vào nơi vinh hiển. Cái hào khí nầy, cái phong độ nầy chắc chắn là hình ảnh tươi thắm khi con nhà thơ còn sống trên trần đời.

     Ta hãy phân tích hai câu thơ ở vế mở đầu:

Ngựa đã về chốn an nhiên
Hí vang rừng núi cửa thiền rộng thênh

     Ngựa mà về chốn “an nhiên” tức nhiên là chỗ có đồng cỏ xanh tươi,  mé nước bình tịnh để an nghĩ nơi đây. Ngựa về chốn “an nhiên” mà “hí vang rừng núi” là ngựa vui mừng khôn tả. Nơi ngựa về vừa là chốn “an nhiên” vừa là “cửa thiền” thì không đâu khác hơn là cõi Niết Bàn. Tôi không biết cõi Niết Bàn đẹp ra sao nhưng tôi nghĩ chắc nó cũng như cõi Thiên Đàng mà thôi, vì hai nơi nầy đều toàn thiện toàn mỹ như nhau. Theo kinh Thánh sách Khải Huyền thì ở đó thành bằng vàng ròng, tường bằng ngọc quý, có dòng sông mà hai bên bờ là cây sự sống, lá cây dùng để chửa bệnh cho muôn dân. Ở đó sự nguyền rủa không còn nữa, đêm không còn nữa. Người ta sẽ đem vinh quang và vinh dự các dân tộc vào đó. Những gì ô uế, những người làm điều kinh tởm, giả dối không vào đó được. Sẽ không còn tang chế, khóc lóc hay đau khổ, vì những điều ấy đã qua rồi.

      Con người thường dùng các chữ “phiêu diêu cực lạc” để chỉ linh hồn đi vào nơi giống như trong Kinh Thánh khải thị. Chữ “phiêu diêu” khiến ta liên nghĩ đến linh hồn con người như một cái lông nhẹ nhàng bay vào đất mới. Con người còn hay dùng chữ “siêu thoát” về miền cực lạc. Chữ “siêu thoát” khiến ta liên tưởng linh hồn giống như một tia chớp xẹt vào chốn an vui. Những chữ nầy làm cho linh hồn con người có hình ảnh quá mong manh và yếu đuối. Một chiếc lông, một tia chớp dầu nó đến nơi bình an thì cũng chỉ là sự quay về một cách vẳng lặng và hẩm hiu, mang hình ảnh buồn thảm vì đã thất bại trước bao nỗi đoạ đày nơi trần thế, nay thất thểu quay về miền an tịnh mà thôi.

     Thế Lộc không thế, nhà thơ diễn tả linh hồn con người về cõi Niết Bàn như con ngựa tung vó hí vang mang tin mừng chiến thắng trở về. Chiến thắng gì? chiến thắng trong trận chiến dưới trần ai. Làm tròn trách nhiệm và sứ mạng thiêng liêng của mình nơi có nhiều gian nan và thử thách. Như thế hai câu thơ đầu đã vẽ nên một bức tranh sống động. Hình ảnh con ngựa giữa cảnh rừng núi hùng vĩ nhưng yên tịnh làm mờ đi sự chết, dựng lại sự sống đầy sinh lực của linh hồn nơi cõi mới, an lòng người thân biết bao nhiêu.

Hai câu lục bát tiếp theo của bài thơ diễn tả sự đoàn tụ chứ không phải là tiếng khóc chia ly:

Miên trường, sinh diệt mông mênh
Yên cương hạnh ngộ bồng bềnh thiên thu

      
"Miên trường” là gì? Hai chữ nầy lấy trong thơ Bùi Giáng: “Xin chào nhau giữa con đường/ Mùa xuân phía trước, miên trường phía sau”. Chưa ai giải thích được “miên Trường” là gì. Có người cho miên trường là vô tận, có người cho miên trường là giấc ngũ dài, có người cho miên trường là môt vùng cô liêu rộng lớn. Gộp ba ý nầy lại, cọng với chữ “sinh diệt mông mênh” của Thế Lộc ta có thể giải nghĩa ý thơ của câu “Miên trường, sinh diệt mông mênh” là chỉ một cõi vô tận có sinh và có diệt, là thế giới mông mênh chứa đựng bánh xe luân hồi của Phật giáo. Cõi miên trường đó không còn là chốn  của ngựa nữa,  vì ngựa đã “Yên cương hạnh ngộ bồng bềnh thiên thu” nghĩa là ngựa đã vinh hạnh gặp nơi ngàn thu. Nơi ngàn thu đó có thể là sự bồng bềnh ở chốn cực lạc hoặc là nơi linh hồn bồng bềnh phiêu diêu miền cực lạc. Dầu hiểu thế nào thì hai câu thơ cũng nói lên linh hồn đã thoát vòng cương toả của bánh xe luân hồi để về miền thiên quốc.

Hai câu thơ kế tiếp nhà thơ muốn nói lên sự đạt đạo của linh hồn:

Ngựa về giữa chốn bụi mù
Mưa tâm đã tịnh, nghìn thu rạng ngời

     “Mưa” thì có gió, có sấm có sét biểu hiện cho mọi biến động của linh hồn. Những biến động đó sinh ra mọi đau khổ, làm ra sinh lão bệnh tử, và cái khổ đế đó kẹp cứng linh hồn trong bánh xe luân hồi đời đời kiếp kiếp. “Ngựa về chốn bụi mù” trong tâm trạng “Mưa tâm đã tịnh” nghĩa là tâm hồn đã khống chế được cái ta xao động, cái ta bay nhảy, cái ta tội lỗi đã dìm linh hồn lâu nay không thấy được sự “rạng ngời” của đạo. Bây giờ tâm đã định, linh hồn con người chiến thắng tội lỗi, như con ngựa hí vang, thoát cõi miên trường sinh diệt, về chốn rạng ngời đạo pháp, chốn bồng lai tiên cảnh. Hai câu thơ nầy đưa ra hai bức tranh khác biệt, một bức náo nhiệt với hình ảnh ngựa quay về trong bụi mù, một bức  ngựa bình tịnh an vui. Cả hai bức tranh vừa động vừa tỉnh làm người đọc cảm nhận tất cả sự háo hức, niềm vui tràn ngập khi linh hồn thoát ra khỏi trần gian về nơi mình mong muốn.

     Hai câu chót của bài thơ là tiếng nhạc đưa đường:

Nhịp chuông ai thả chơi vơi
Ngựa thiên cổ đã về trời vãng sinh

Nhịp chuông hay là nhạc chuông cũng vậy, nó đều mang ý nghĩa của sự nguyện cầu nơi trần thế, nó đều mang ý nghĩa của tiếng buồn vọng lên thinh không. Đây là nỗi lòng của người ở lại. đây là tiếng khóc chia ly. Nếu bài thơ chỉ nói niềm vui của người đi mà không nói đến nỗi buồn trong cảnh ly biệt thì bài thơ không thật. Cái đau của Thế Lộc cũng vô cùng được diễn tả trong câu “Nhịp chuông ai thả chơi vơi”, nhưng nỗi đau đó không là nỗi đau tuyệt vọng. Nó mang niềm hy vọng tuyệt đẹp trong câu thơ “Ngựa thiên cổ đã về trời vãng sanh”. “ Ngựa thiên cổ” là con ngựa nghìn năm trước, ý nói linh hồn đã đi qua ngàn kiếp trong tục luỵ, nay đã cởi bỏ kiếp thồ để về nước trời vĩnh viễn.

     Thơ Thế lộc  thường mang đầy tâm trạng. Cuộc đời bất đắc chí, những người thân ra đi đem đến cho nhà thơ rất nhiều ưu tư, dằn vặt và nỗi ưu tư đó anh đem vào thơ lúc nào cũng buồn thắm thiết. Riêng bài thơ nầy, nỗi buồn chẳng phải là không sâu, nhưng cái tư duy đổi mới làm cho hình ảnh người ra đi cao đẹp làm sao, hùng tráng làm sao  và khiến cho tâm trạng người ở lại cũng vơi đi đau khổ khi nhìn qua bên kia thế giới cũng thấy có niềm vui ./.

                                                                                   Châu Thạch


READ MORE - Châu Thạch - Đọc NGỰA VỀ GIỮA CHỐN BỤI MÙ, thơ Thế Lộc

TẢN MẠN VỀ VAI TRÒ CỦA Ý TỨ TRONG THƠ - Phạm Đức Nhì



         Tác giả Phạm Đức Nhì




       TẢN MẠN VỀ VAI TRÒ CỦA Ý TỨ TRONG THƠ  
    
     Trên đường tìm học rồi nghiên cứu văn chương tôi may mắn được quen biết 2 ông giáo sư đại học Mỹ; một ông là thầy, ông kia là đồng nghiệp của thầy; một ông dạy Creative Writing (Sáng Tác), ông kia chuyên về Literature Review (Phê Bình Văn Học), một ông có bằng Master, ông kia là Tiến Sĩ Văn Chương và đều là thi sĩ. Số là cách đây gần 20 năm, trong một bài essay (luận văn) của lớp English 2 tôi đã đưa bài thơ của mình (đã dịch ra Anh ngữ) vào để đối chiếu với bài thơ For My Daughter (Cho Con Gái Tôi) của Weldon Kees. Bài luận văn của tôi được điểm A+ và sau đó tôi được ông thầy và đồng nghiệp của ông xem là thành viên trong loài “động vật quý hiếm” (1), thỉnh thoảng được cùng – lúc ông này, lúc ông kia - uống cà phê, ăn bánh ngọt và tán chuyện văn chương.
 Ông thầy thì dặn tôi “Viết Cái Gì không quan trọng lắm; tài năng của tác giả một bài thơ được đánh giá ở chỗ ông (bà) ta Viết Thế Nào. Trong sáng tác thơ ca How quan trọng hơn What gấp trăm lần. Từ kỹ thuật thơ như ngôn từ, hình tượng, biện pháp tu từ, thế trận chữ nghĩa đến cảm xúc, hồn thơ tất cả đều được gói trọn trong chữ How. Nếu cứ ngồi chờ đến khi có được ý tưởng hoàn toàn mới lạ, độc đáo mới viết thì cả đời liệu viết được mấy bài thơ?
Còn ông kia, lúc ngồi riêng với tôi hay nhắc nhở: “Trong thơ đừng coi thường What; ý tưởng mới lạ làm tăng giá trị của bài thơ lên rất nhiều; nếu không được là người tiên phong dọ dẫm những bước chân khai phá thì chí ít cũng cố gắng đừng đi vào con đường đã có hàng triệu dấu giầy”
Tôi nhủ thầm: “Bàn về một tiêu chí quan trọng của thơ mà ông này nói đàng Đông, ông kia nói đàng Tây thì biết nghe ông nào bây giờ?”
Đối với thơ Việt Nam What gồm cả ý và tứ mà người đọc thơ rất dễ hiểu lầm hoặc lẫn lộn. Cho nên trong bài viết này tôi sẽ cố gắng làm rõ vai trò không những của ý mà còn của tứ trong thơ. Để đi đến mục tiêu đó tôi sẽ chọn một số bài thơ quen thuộc với những người thường đến với sân chơi thi ca (có vài bài tôi đã viết lời bình) để vừa minh họa vừa dẫn chứng cho những suy nghĩ, nhận định của mình.

Phân biệt Ý và Tứ

Tứ: Cách để tiếp cận, diễn đạt ý. (nghĩa trên văn bản hoặc nghĩa đen của bài thơ)
Ý: Điều tác giả muốn nói đến, (ngụ ý hoặc nghĩa bóng)
Khi tác giả chọn cách nói trực tiếp, nói thẳng vảo điều muốn nói, bài thơ có ý và tứ giống nhau. Ý là tứ, tứ là ý, ý với tứ là một. Ở đây không có ngụ ý hoặc nghĩa bóng (không có phép ẩn dụ)
Thí dụ:
Hồ Trường của Nguyễn Bá Trác:
Ý và Tứ là một: Hào khí của một sĩ phu trước cảnh đất nước điêu linh.
Tống Biệt Hành của Thâm Tâm:
Ý và Tứ là một: Tâm trạng của con người  trong một cuộc chia ly
     Khi tác giả không muốn nói trực tiếp, không muốn nói thẳng vào điều muốn nói mà mượn một hình ảnh khác, một sự kiện khác để thố lộ lòng mình, bài thơ có ý và tứ khác nhau. Ý là điều muốn nói; tứ là hình ảnh mượn để thố lộ lòng mình. Tác giả đã áp dụng thủ pháp Show, Not Tell hoặc phép ẩn dụ toàn bài.
Thí dụ:
Ông Đồ của Vũ Đình Liên
Tứ: Ông Đồ ngồi bên phố viết câu đối thuê cho khách du xuân. Nay xuân đến, không thấy ông đồ nữa, nhiều người tiếc nhớ.
Ý: Tác giả muốn nói đến nền nho học đang lụi tàn.


     TẤM  BẢN  ĐỒ  VẼ  SAI

Chọn lô đất tốt xây được ngôi nhà mới
ông mở tiệc mừng tân gia
“Đến chơi! Hay lắm!”
thư ông viết
mời bằng hữu gần xa

Ngay giữa trang thư một bản đồ
dọc ngang tự tay ông vẽ 
và lời chỉ dẫn cặn kẽ
đường đi nước bước đến cuộc vui

Giờ hẹn đến rồi
chưa thấy bóng khách mời nào xuất hiện
đồ ăn nguội lạnh
bàn tiệc vẫn vắng tanh

Vài ngày sau
ông nhận được mấy thư trả lời
trong thư chỉ vỏn vẹn:
“Xin lỗi!
Không tìm thấy nhà.”
(Phạm Đức Nhì)

Tứ: tấm bản đồ vẽ sai, khách bị lạc, không tìm thấy nhà.
Ý: Nếu chức năng truyền thông của bài thơ thất bại, người đọc sẽ (đi lạc) không hiểu tác giả nói gì qua bài thơ, không có nhịp cầu thông cảm giữa tác giả và người đọc.

Trước hết là 3 bài thơ của Tú Xương cùng viết về một đề tài:

CÁI HỌC NHÀ NHO
Cái học nhà nho đã hỏng rồi,
Mười người đi học, chín người thôi .
Cô hàng bán sách lim dim ngủ,
Thầy khóa tư lương nhấp nhỏm ngồi.
Sĩ khí rụt rè gà phải cáo,
Văn chương liều lĩnh đấm ăn xôi .
Tôi đâu dám mỉa làng tôi nhỉ?
Trình có quan tiên thứ chỉ tôi.

CHỮ NHO
Nào có ra gì cái chữ nho!
Ông nghè, ông Cống cũng nằm co.
Chi bằng đi học làm thầy Phán
Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò!

ĐỔI THI
Nghe nói khoa này sắp đổi thi
Các thầy đồ cố đỗ mau đi!
Dẫu không bia đá còn bia miệng
Vứt bút lông đi, giắt bút chì.

Theo tôi, làm thơ mà sử dụng cái phương cách kể lại, nói thẳng, nói trực tiếp những suy nghĩ trong đầu mình như Trần Tế Xương trong 3 bài trên là hạ sách. Ở đây ý và tứ giống nhau: tâm trạng ngao ngán, chán chường của tác giả trước sự suy tàn của nền Nho học. Trong những bài thơ này cái vẻ lung linh sương khói, mờ mờ ảo ảo - một trong những nét đẹp của thơ ca – thường vắng bóng, hoặc nếu có thì cũng rất ít (vì chỉ phát xuất từ ngôn từ). Nó rõ ràng như một “bài toán văn chương” nên người đọc không có cơ hội vận dụng khả năng liên tưởng của mình, không có cơ hội dùng đến thứ vốn quý của người đọc thơ là cái “tài cảm nhận thơ” của mình. Trong khung cảnh ấy, môi trường ấy, người sính thơ, sành thơ và người dốt thơ, mù thơ hình như cũng chẳng khác gì nhau mấy tý. Chính vì thế trong văn chương, đặc biệt là thơ, thủ pháp Show, Not Tell, đưa ra những sự kiện để người đọc tự hiểu ra, tự cảm nhận điều tác giả muốn nói đến, hoặc cao hơn nữa là phép ẩn dụ, rất được coi trọng.

Đến Ông Đồ của Vũ Đình Liên

             ÔNG  ĐỒ

            Mỗi năm hoa đào nở
            Lại thấy ông đồ già
            Bày mực tàu, giấy đỏ
            Bên phố đông người qua

            Bao nhiêu người thuê viết
            Tấm tắc ngợi khen tài
            Hoa tay thảo những nét
            Như phượng múa rồng bay

            Nhưng mỗi năm mỗi vắng
            Người thuê viết nay đâu?
            Giấy đỏ buồn không thắm
            Mực đọng trong nghiên sầu

            Ông đồ vẫn ngồi đấy
            Qua đường không ai hay
            Lá vàng rơi trên giấy
            Ngoài trời mưa bụi bay

            Năm nay đào lại nở
            Không thấy ông đồ xưa
            Những người muôn năm cũ
            Hồn ở đâu bây giờ?
              (Vũ Đình Liên)

Cũng cái ý về sự lụi tàn của nền Nho học nhưng bài thơ Ông Đồ bề thế hơn, đạo quân chữ nghĩa đông hơn, và đặc biệt, thủ pháp Show, Not Tell đã đến mức tuyệt luân. Hơn thế nữa, tác giả đã ra lệnh cho các con chữ của mình học phép tàng hình (khi đọc thì chữ hiện ra, khi đọc xong thì chữ biến mất) để hóa thân thành những bức tranh – đúng ra là một truyện bằng tranh - sống động. Đây là trình độ thượng thừa trong thơ ca; ở đó chữ nghĩa đã mất biệt, lý trí bị đuổi việc, không còn chõ miệng vào chỗ này, chỗ kia bàn tính thiệt hơn. Người đọc thả hồn theo dòng chữ như có phép tàng hình để thưởng ngoạn những bức tranh thơ tuyệt đẹp.
Rất tiếc Những Bức Tranh Thơ của Ông Đồ đã có một chỗ hoen ố; đó là 2 câu cuối của bài thơ:
          “Những người muôn năm cũ
            hồn ở đâu bây giờ”
Nhiều nhà phê bình đã khen 2 câu thơ này hết lời.
Riêng tôi, về ý tứ thì đồng ý với họ, nhưng xét về Kỹ Thuật Thơ thì 2 câu ấy đã làm giảm giá trị của bài thơ rất nhiều. Những con chữ đột nhiên mất phép tàng hình và nổi lên cồm cộm. Bức tranh cuối - nửa tranh, nửa chữ - trông rất mất vẻ mỹ thuật. Đưa 2 câu ấy vào bài thơ tác giả đã để vuột mất chiếc huy chương vàng - giải thưởng cao quý nhất trong thơ ca.
Nếu không có cái lỗi ấy Ông Đồ không những đã có thể đẩy Sông Lấp qua một bên để giành vị trí “bài thơ tiêu biểu, chứng nhân cho một giai đoạn lịch sử của dân tộc Việt Nam: giai đoạn cáo chung của nền văn học chữ Nho”, mà hơn thế nữa, sẽ là một viên ngọc quý của thơ ca, không những chỉ đẹp lộng lẫy, chói lọi trên thi đàn Việt Nam mà ngay cả khi đứng trước kho tàng văn chương Trung quốc – nó cũng không chịu nhường một bước. Chắc nhiều người yêu thơ, thông hiểu chữ Hán đều biết hai câu thơ được coi là niềm tự hào của thi ca Trung Quốc:
          Lạc hà dữ cô vụ tề phi
          Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc
          Ráng chiều rơi xuống, với cánh cò đơn chiếc cùng bay
          Làn nước sông thu với bầu trời kéo dài một sắc
          (Trần Trọng San dịch)
vì đó là một bức tranh thơ tuyệt đẹp.
Tôi tra cứu thì được biết người ta đã bới tung bài Đằng Vương Các Tự (dài trên trăm câu) nổi tiếng của Vương Bột (2) mới tuyển chọn được bức tranh thơ ấy. Trong khi Ông Đồ của Vũ Đình Liên là cả một bộ truyện lịch sử bằng tranh sinh động. Đọc Đằng Vương Cát Tự độc giả phải “đãi cát tìm vàng”, còn với Ông Đồ họ sẽ thấy trước mắt mình nằm xếp lớp những thỏi vàng óng ánh.

                SÔNG LẤP
Sông kia rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai
Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò
(Trần Tế Xương)

Phép ẩn dụ trong Sông Lấp rất kín, kín đến nỗi ngay cả có người bình bài thơ ấy cũng không thấy được, cảm được ẩn ý của tác giả. Có thể nói Sông Lấp không phải là một đoàn quân trùng trùng, điệp điệp, nhưng lại có bề thế của một mặt trận, một điệp vụ tình báo siêu đẳng, đưa được những điệp viên thượng thặng, bí mật nằm giữa bộ chỉ huy của quân địch. Phép ẩn dụ ấy được kết hợp một cách tài tình với thủ pháp “Show, not Tell”, tạo ra một chuỗi những chiếc cầu liên tưởng, dẫn người đọc đi từ hình tượng này đến hình tượng khác. Từ tiếng ếch kêu, trong hoàn cảnh riêng của mình, trong tâm tình riêng của mình, nhà thơ “tưởng tiếng ai gọi đò”. Đây là một liên tưởng rất riêng tư; nếu ông không bộc bạch, bày tỏ thì người đọc khó có thể đoán ra được. Biết thế nên ông đã đưa tay dắt chúng ta bước lên chiếc cầu đầu tiên. Đến 2 chiếc cầu liên tưởng kế tiếp thì người đọc đã có thể tự mình qua được; từ tiếng gọi đò nhớ bến đò ngang, từ bến đò ngang nhớ con sông Vị Hoàng ngày xưa, nay đã bị lấp. Khi từ con Sông Lấp đặt chân lên chiếc cầu sau cùng, bằng vốn kiến thức về lịch sử, văn học sử, cộng với một chút trực giác thi ca, người đọc sẽ bắt gặp nỗi lòng sâu kín của nhà thơ: nhớ thương, tiếc nuối cái thời tạm gọi là vàng son của mình, cái thời Nho học vẫn còn chỗ đứng khá trang trọng trong đời sống người dân Việt. Và người đọc sẽ tròn xoe mắt “À” lên một tiếng khoái trá. (3)

Ngoài ra Sông lấp còn có những ưu điểm khác như thế trận chữ nghĩa chặt chẽ, rất nhiều chữ ở vị trí đắc địa, bài thơ không lộ một chút sơ hở. Chính vì thế Sông Lấp được coi là bài thơ tiêu biểu cho tâm tình hoài cổ hoặc là chứng nhân cho một giai đoạn lịch sử - giai đoạn suy tàn của nền nho học.
SHOW, NOT TELL Và

GIẤC MƠ ANH LÁI ĐÒ
1/ Năm xưa chở chiếc thuyền này
    Cho cô sang bãi tước đay chiều chiều
2/ Để tôi mơ mãi, mơ nhiều:
   “Tước đay se võng nhuộm điều ta đi
   Tưng bừng vua mở khoa thi,
   Tôi đỗ quan trạng vinh quy về làng
   Võng anh đi trước võng nàng
   Cả hai chiếc võng cùng sang một đò.”
3/ Đồn rằng đám cưới cô to   Nhà giai thuê chín chiếc đò đón dâu   Nhà gái ăn chín nghìn cau   Tiền cheo, tiền cưới chừng đâu chín nghìn…4/ Lang thang tôi dạm bán thuyền
   Có người giả chín quan tiền, lại thôi!
    (Nguyễn Bính)
Bài thơ có ý và tứ giống nhau: vì nghèo nên anh lái đò đành nhìn người yêu đi lấy chồng rồi trở về con đò của mình với mối tình vô vọng. Đây là đề tài muôn thuở, cũ rich như “chuyện thường ngày ở huyện”, là con đường đã mòn dấu chân người, nhưng nhờ thủ pháp Show, Not Tell được áp dụng gần như hoàn hảo (chỉ không khéo ở chữ “to” câu 9 - xin đọc GMALĐ hay Mối Tình Vô Vọng, Phạm Đức Nhì) nên vẫn được người đọc yêu thích và trở thành một trong những bài thơ hay của thời tiền chiến.
Sau đây là bài thơ GMALĐ được tôi tóm lại dưới dạng Tell để hy vọng người đọc nhận ra sự khác biệt.
1/ Đưa đò nên quen biết nàng
2/ dần dà tôi đã yêu nàng thiết tha
3/ nhìn nàng đi lấy đại gia
4/ tôi nghẻo nên vẫn con đò cô đơn

Mỗi câu ở phần dưới là thu gọn của một đoạn ở phần trên. Ở phần dưới anh lái đò chỉ sơ lược, tóm tắt kể lại (Tell) câu chuyện lòng mình trong khi ở phần trên anh dàn trải (Show) tâm trạng  một cách chi tiết hơn, tự đặt mình vào một tình huống cụ thể, thực tế và sống động, cung cấp cho người đọc những thông tin cần thiết để họ tự hiểu rồi thông cảm với hoàn cảnh và tâm tình của anh. Bài thơ càng mang nhiều tính cách Show thì càng thật, càng dễ cảm, giá trị càng cao.
Qua bài thơ và phần phân tích trên đây tôi nhận ra rằng: “Dù ý, tứ thơ đã cũ mòn nhưng nếu tay nghề của thi sĩ cao, có thể sử dụng điêu luyện một thủ pháp nghệ thuật nào đó, và nếu được viết trong lúc tràn đầy thi hứng thì vẫn có cơ hội tặng cho đời một bài thơ hay.” Lời nhắc nhở của ông bạn Mỹ “Viết Cái Gì không quan trọng lắm; tài năng của tác giả một bài thơ được đánh giá ở chỗ ông (bà) ta Viết Như Thế Nào. Trong sáng tác thơ ca How quan trọng hơn What gấp trăm lần.” nghe cũng có lý đấy chứ!

Mấy Bài Thơ Của TTKh

 Vào thời TTKh viết Hai Sắc Hoa Ti Gôn (và 3 bài thơ khác) con người VN còn sống bó buộc trong cái khung của lễ giáo phong kiến: “Liệt nữ bất canh nhị phu” nghĩa là gái chính chuyên chỉ có một chồng. Sự chung thủy là một đức tính, một nguyên tắc ứng xử - chỉ áp dụng cho phái nữ - được hết mực ca ngợi. Đã “đeo gông vào cổ” rối mà còn “tơ tưởng đến ông láng giềng” hay bất cứ người đàn ông nào khác là đã “ngoại tình trong tư tưởng”, là đã phạm một điều đại cấm kỵ, bị xóm làng nguyền rủa, xã hội lên án. Những bài thơ của TTKh đã đạp đổ cái luật lệ khắt khe bất nhân ấy, đã gột rửa lớp son phấn giả tạo của Khổng Giáo trên thân thể người phụ nữ, để lộ ra trước xã hội, trước cuộc đời một Con Người có trái tim, biết yêu thương, nhung nhớ, biết khổ đau. Ý tưởng của mấy bài thơ, lúc ấy, được coi là vô cùng táo bạo, không những thoát khỏi mà còn chảy ngược với dòng thơ phải đạo.
Sau đây là vài đoạn tiêu biểu trong mấy bài thơ nổi tiếng của bà: 
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi
Mà từng thu chết, từng thu chết
Vẫn giấu trong tim bóng một người
(Hai Sắc Hoa Ti Gôn)

Ngoài trời hoa nắng xôn xao
Ai đem khóa chết chim vào lồng nghiêm
Ai đem lễ giáo giam em
Sống hờ hết kiếp trong duyên trái đời.
(Đan Áo Cho Chồng)

Tuy thế tôi tin vẫn có người
Thiết tha theo đuổi nữa than ôi
Biết đâu tôi một tâm hồn héo
Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi.
(Bài Thơ Thứ Nhất)

Tôi biết làm sao được hỡi trời
Giận anh không nỡ nhớ không thôi
Mưa buồn mưa hắt trong lòng ướt
Sợ quá đi anh, có một người.
(Bài Thơ Cuối Cùng)

  Trước TTKh chắc cũng có nhiều bậc thức giả đã nhận ra khía cạnh bất nhân trong cái gọi là “tam tòng tứ đức” của đạo Khổng - đã ép buộc nhiều phụ nữ phải gạt nước mắt chia tay người mình hết lòng thương mến, để vì lễ giáo, vì môn đăng hộ đối, vì lệnh của song thân, phải lấy, rồi ăn ở suốt đời với người mình không hề yêu thương - nhưng họ hoặc không dám nói ra hoặc chỉ than thở lén lút và những lời than thở ấy cũng thoảng bay theo gió. Tuy vậy, thi đàn nước Việt có ít nhất 2 tác phẩm đề cập đến sự coi thường tình cảm của phụ nữ trong hôn nhân vẫn còn được lưu truyền:

Cung Oán Ngâm Khúc
Theo Wikipedia thì “Cung oán ngâm khúc là tiếng thét oán hờn của một trang nữ lưu tố cáo và phản kháng chế độ phong kiếnphong kiến đã đối xử phũ phàng tàn ác đối với phẩm giá và những tình cảm trong sáng, cao quý của người phụ nữ. Cung nữ chính là nạn nhân bi thảm của những đặc quyền phong kiến ích kỷ và vô nhân đạo, bị vua chúa biến thành đồ chơi để thoả mãn thú tính hoang dâm của mình, rồi bị ném đi không thương tiếc vào lãng quên. Nguyễn Gia Thiều là một văn hào uyên thâm và chứa chan tinh thần nhân đạo đã thấu hiểu nỗi lòng của người cung nữ, đã dồn hết tâm huyết và văn tài để viết nên một tác phẩm bất hủ, đau đớn xé lòng về cuộc đời nàng.
Ngôn ngữ trong Cung oán ngâm khúc hết sức tài hoa, đài các, tinh xác và nhuần nhị … Câu thơ trong Cung oán ngâm khúc được trau chuốt đến mức tuyệt xảo, âm điệu góc cạnh và dữ dội, dùng nhiều ngoa ngữ; mỗi câu thơ như dao khắc chạm vào đá gây ấn tượng đặc biệt mạnh mẽ:
Xiêm nghê nọ tả tơi trước gió
Áo vũ kia lấp ló trong trăng
hay
Thân này uốn éo vì duyên
Cũng cam một tiếng thuyền quyên với đời!”(4)

Tôi có mấy nhận xét sau đây:
     1/ Đối tượng của ý thơ nhắm vào những cung nữ trong cung đình, chỉ là một bộ phận nhỏ trong cộng đồng phụ nữ của dân tộc. 
     2/Thể thơ song thất lục bát đã không còn được ưa thích và ngày càng ít xuất hiện trên thi đàn.
     3/ Khi tôi viết những dòng chữ này (2016) chế độ phong kiến đã cáo chung từ lâu. Không còn tam cung lục viện, không còn hàng ngàn cung phi, mỹ nữ, có người phải lén rải cỏ non trước cửa phòng với ước mơ xe dê của vua ngừng lại và tấm thân trong trắng ngọc ngà của mình được ngài đoái hoài đến. Ý tưởng chính của tác phẩm - “Tiếng thét oán hờn của trang nữ lưu” - đã không còn tính thời sự, không còn thôi thúc, không gây được ấn tượng mạnh như thời Nguyễn Gia Thiều.
Có lẽ vì thế mà CONK dù vẫn có vị trí trong văn học sử, giá trị và ảnh hưởng của nó phải xếp phía sau mấy bài thơ của TTKh.

Cảnh Làm Lẽ
Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!
Năm thì mười họa, hay chăng chớ,
Một tháng đôi lần, có cũng không ...
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hỏng,
Cầm bằng làm mướn, mướn không công.
Thân này ví biết dường này nhỉ,
Thà trước thôi đành ở vậy xong.
 (Hồ Xuân Hương)

Đối tượng của Cảnh Làm Lẽ cũng chỉ là một thiểu số phụ nữ - vì một lý do nào đó - chấp nhận làm lẽ. Thể thơ đường luật chật hẹp quá, gò bó quá nên chỉ mới chạm vào lớp vỏ ngoài của nỗi khổ phải “lấy chồng chung”. Bài thơ gợi được mối thương cảm nơi người đọc nhưng mối thương cảm ấy không lớn, không sâu sắc.

Trong khi đó đối tượng của mấy bài thơ của TTKh là toàn thể giới phụ nữ. Độ phủ sóng ở đây lớn hơn gấp bội. Thêm vào đó hôn nhân ép buộc kiểu “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” đang xảy ra trước mắt mọi người, đang là một vấn nạn lớn của xã hội nên mấy bài thơ ấy – có thể nói mà không sợ bị cho là quá lời – đã góp đặt nền móng cho việc đạp đổ lễ giáo phong kiến của Khổng Tử, làm cuộc cách mạng giải phóng phụ nữ sau này.
Thể thơ mới phóng khoáng, tự do hơn nên TTKh đã trải tâm sự của mình một cách thoải mái, đầy đủ, sâu sắc. Hơn nữa đội quân chữ nghĩa của bà thế trận chặt chẽ hơn, chia thành 4 đạo quân bao kín trận địa (4 bài thơ) và đã chinh phục hoàn toàn tim óc của người đọc thời bấy giờ.
Dưới cái nhìn của thơ ca hiện đại thì mấy bài thơ của TTKh – dù nhỉnh hơn CONK và Cảnh Làm Lẽ - chỉ ở mức khá hoặc trên khá một chút - nhưng nhờ có ý tưởng nhân bản và táo bạo – đòi lại  quyền làm chủ trái tim mình cho toàn thể phụ nữ - nên chúng, tuy chưa phải là tuyệt tác, vẫn có một vị trí đặc biệt trong văn học sử, trở thành cột mốc quan trọng trên chặng đường tiến hóa của dân tộc.
Đến đây tôi lại nhớ ông bạn Mỹ. Câu nói của ông ““Trong thơ đừng coi thường What; ý tưởng mới lạ làm tăng giá trị của bài thơ lên rất nhiều; nếu không được là người tiên phong dọ dẫm những bước chân khai phá thì chí ít cũng cố gắng đừng đi vào con đường đã có hàng triệu dấu giầy”
 trong trường hợp này cũng rất có lý.

 Chăn Trâu Đốt Lửa
Chăn trâu đốt lửa trên đồng
Rạ rơm thì ít, gió đông thì nhiều
Mải mê đuổi một con diều
Củ khoai nướng để cả chiều thành tro.
(Đồng Đức Bốn)

Bài thơ ngắn nhưng tứ thơ rất hay: mê thả diều để củ khoai nướng, có thể là bữa ăn đạm bạc của trẻ chăn trâu, cháy thành tro. Khung cảnh rất thực, rất dân dã của bài thơ khiến tứ thơ dễ bắt, người đọc có thể hiểu ngay. Nhưng ngụ ý của tác giả thì hơi có vẻ mờ mờ ảo ảo, bềnh bồng, lung linh sương khói đòi hỏi một trực giác nhạy bén, một khả năng liên tưởng mạnh mẽ và chính xác để cảm nhận. Sau đây xin trích dẫn liên tưởng của nhà bình thơ Đức Thọ:
“Trẻ chăn trâu mải mê theo đuổi một con diều (cái đó là tất yếu sẽ diễn ra với trẻ chăn trâu). Nhưng trong cuộc sống ngày nay có biết bao nhiêu cá thể cũng mải mê theo đuổi một “con diều”. Một con diều không hơn không kém và đúng nghĩa là một thú vui của trẻ chăn trâu, nhưng còn “con diều” của những cá thể chúng ta thì nó nhiều vô kể. Mải mê vậy để một củ khoai nướng đốt cả chiều thành tro thì quả là một kết cục rất thực đời. Mải mê nghe điện thoại khi đang điều khiển xe dẫn đến mất mạng sống. Mải mê theo đuổi ánh kim của tiền bạc dẫn đến tan cửa nát nhà hoặc lâm vào trong vòng lao lý và mải mê… v.v. và v.v.…” (5)

Đúng là bài thơ có ý tưởng rất tuyệt, tuyệt đến mức ông Đức Thọ đã đưa nó lên hàng “triết lý nhân sinh”. Tôi nể phục và đồng ý với việc nâng cấp ấy nhưng lại có ý kiến rất khác với ông về những thí dụ minh họa.
Cái chuyện “Mải mê nghe điện thoại khi đang điều khiển xe dẫn đến mất mạng sống. ” hoặc “Mải mê theo đuổi ánh kim của tiền bạc dẫn đến tan cửa nát nhà hoặc lâm vào trong vòng lao lý” làm sao có thể cho là một “triết lý nhân sinh” được. Đó chỉ là một sự dại dột và bướng bỉnh đến độ coi thường mạng sống hoặc tham lam đến độ mờ mắt, coi thường đạo lý và pháp luật, để rồi trong một phút bất cẩn gây tai nạn, hoặc đổ bể sự việc – không những mất mạng mình mà còn mang khổ ải đến cho bao nhiêu người khác. Đó không phải “triết lý” mà là cái dại, cái tham làm hại cái thân. Nếu hiểu như ông Đức Thọ thì bài thơ Chăn Trâu Đốt Lửa đã đi vào quên lãng từ lâu rồi chứ đâu còn được lưu truyền đến ngày hôm nay để người này nguời kia tham gia lý sự. 
Có một cách hiểu khác có vẻ có lý hơn là “Hãy sống thực tế, đừng mơ mộng viển vông”. Miền bắc Việt Nam vào những năm ĐĐB viết CTĐL là một vùng “người khôn của khó”, quần quật suốt ngày kiếm đủ cơm khoai dưa mắm cho gia đình đã là may mắn lắm rồi. Hơn nữa, trận đói năm Ất Dậu (1945) là một cơn ác mộng, một nỗi kinh hoàng lúc nào cũng ám ảnh tâm trí mỗi người. Nắm gạo, củ khoai, con cá, lá rau là những món thiết thực, gần gũi với mọi gia đình. Những câu “Có thực mới vực được đạo” hay “Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông lại nhất nông nhì sĩ” đã là những câu nói cửa miệng nhắc nhở con cháu trong nhà – hãy bước đi bằng đôi chân chạm đất chứ đừng có bay lơ lửng trên không kẻo lại “giật mình tỉnh dậy thấy mình đói meo”. Nhưng nếu hiểu theo cách này thì ý tưởng trong bài thơ của ĐĐB có gì đặc biệt đâu, cũng chỉ lập lại những điều mà người dân đồng bằng Bắc Bộ đã nhắc nhở nhau, dặn dò nhau đến nhàm đến chán.
Theo tôi, ngụ ý của Đồng Đức Bốn như sau:
Con người nhiều khi chạy theo những cái viển vông, cao tít trên trời mà quên đi những thứ thiết thực, gắn bó với cuộc sống, ngay trên mặt đất. Nhưng cũng chẳng có gì nuối tiếc vì những thứ viển vông, cao tít đó chính là thức ăn cho tinh thần, cho phần hồn của con người; đó chính là niềm vui, hạnh phúc mà vật chất không thể tạo ra được.
Ở môi trường xã hội mà cái đói luôn là nỗi ám ảnh - dầm mưa dãi nắng từ sáng tinh mơ đến tối mịt mới có được 2 bữa ăn - con người lắm khi bị kéo xuống rất gần với con vật. Vâng ở cái môi trường đó mà dám “coi thường” củ khoai (mặc cho nó cháy thành tro) để đánh đổi lấy một niềm vui tinh thần, được cùng với con diều bay bổng trên bầu trời chiều thì theo tôi, đó là hành vi vô cùng dũng cảm. Ở đây cũng có một chút vô tâm, bất cẩn và sau đó là một chút tiếc rẻ khi bụng – vì thiếu củ khoai – đã bắt đầu cồn cào. Nhưng việc đổi củ khoai lấy những giây phút sảng khoái, hạnh phúc trên cánh đồng vẫn là một thương vụ có lời. Cậu bé trong thơ ĐĐB tối hôm ấy có thể bị lên giường ngủ với cái bụng trống không nhưng chắc là miệng sẽ mỉm cười và có một giấc mơ thật đẹp. Cậu bé đã dám “quên” củ khoai, chấp nhận chịu đói để được hưởng những giây phút sảng khoái trong tâm hồn. ĐĐB đã cho cậu bé chăn trâu bước ra khỏi “cái trại mà ở đó con người gần ngang hàng với con vật”, lùa trâu về chuồng trên con đường làng mà lòng tràn ngập niềm vui và tự hào vì thấy hồn mình đang bay lên một tầm cao mới, tầm cao của CON NGƯỜI được viết hoa thật đẹp. Ý tưởng của bài thơ tuyệt vời là ở chỗ ấy. Và triết lý nhân sinh cũng là ở chỗ ấy. 
         Rất tiếc ĐĐB đã phạm một lỗi nặng trong kỹ thuật thơ ca là dung dưỡng một câu thơ nội gián. Câu “rạ rơm thì ít gió đông thì nhiều” tuy không tệ hại, mâu thuẫn, câu sau chửi cha câu trước như bài thơ:
Trên đường có nhị chàng trai
Đầu râu tóc bạc cỡi hai ngựa hồng
Ngựa thì trắng toát như bông
Giữa đường cát trắng bụi hồng tung bay”
nhưng đã làm mạch thơ, con thuyền tứ thơ - đang băng băng chảy thì bị một dòng đối lưu cản lại – tròng trành như muốn vỡ. Cuối cùng nhờ tài lèo lái của tài công, thuyền cũng trôi tới bờ, tới bến nhưng đã bị tổn thương nặng.

Có 2 cách phát biểu về bài thơ Chăn Trâu Đốt Lửa:
     1/ Nếu không có phần ý và tứ tuyệt vời như thế thì với cái lỗi “dung dưỡng một câu thơ nội gián” trong bài thơ chỉ có 4 câu người đọc đã có thể gạt bài thơ qua một bên để đọc những bài thơ khác. Và bài thơ sẽ hoàn toàn đi vào quên lãng.
     2/ Nếu ĐĐB không phạm lỗi “dung dưỡng một câu thơ nội gián” thì với phần ý và tứ thơ tuyệt vời như thế Chăn Trâu Đốt Lửa chắc sẽ chiếm một vị trí trang trọng trong kho tàng thơ ca Việt Nam và theo tôi, còn cao hơn Sông Lấp của Tú Xương một bậc.   
Ngoài ra, qua CTĐL mối tương quan giữa tác giả, ý, tứ và độc giả cũng hiện ra rõ ràng:
Tác giả đã hoàn thành chức năng truyền thông của bài thơ, tạo được nhịp cầu để người đọc ai cũng có thể “bắt” được, đến được với tứ thơ, hiểu được nghĩa đen (trên văn bản) của bài thơ và hiểu giống nhau (không thể có chuyện người hiểu tứ thơ thế này, người hiểu tứ thơ thế khác). Dĩ nhiên có thể mỗi người mỗi ý khi nói đến cái hay (hoặc dở) của câu chữ, hình tượng, kỹ thuật thơ … nhưng nội dung của bài thơ phải hiểu đúng như ngôn ngữ đã chuyên chở nó.
Riêng với ngụ ý của bài thơ thì tùy theo óc tưởng tượng, khả năng liên tưởng và trực giác thơ ca của mình, mỗi người đọc có thể sẽ cảm nhận khác nhau (có khi khác với tác giả). Một trong những nhiệm vụ của người bình thơ là tìm ra, thuyết phục để người yêu thơ đến với, và chấp nhận cách hiểu vừa hợp lý vừa nâng giá trị của bài thơ lên cao nhất.

So Sánh CHĂN TRÂU ĐỐT LỬA Và SÔNG LẤP

Chăn Trâu Đốt Lửa:
  • Ý tưởng độc đáo, tuyệt vời, “sâu sắc một triết lý nhân sinh” (3)
  • Hình ảnh đứa bé chăn trâu, con diều, củ khoai rất gần gũi, dân dã nhưng lại rất hợp, rất ăn khớp với đề tài; có thể nói tứ thơ rất khéo, hay và dễ thương.
  • Cái dở của CTĐL là có câu thơ nội gián, thế trận chữ nghĩa xộc xệch.
    Sông Lấp:
  • Ý tưởng: nuối tiếc nền Nho học đang lụi tàn, cùng với một số bài thơ khác là chứng nhân của một giai đoạn lịch sử của dân tộc Việt Nam, không hay bằng CTĐL
  • Tứ thơ hay hơn vì có 2 tầng ẩn dụ rất khéo.
  • Chữ dùng rất đắt, thế trận chặt chẽ.
  • Bài thơ toàn bích, không một chút sơ hở.
    Kết luận:
            Theo nhận định chủ quan của người viết thì Sông Lấp hay hơn. Chăn Trâu Đốt Lửa cũng như cô gái đẹp nhưng bị khuyết tật. Dưới con mắt của các anh hùng hảo hán đi tìm người yêu vẻ đẹp của cô gái ấy đã giảm đi quá nửa. Cũng vậy, ý tứ có hay cách mấy mà kỹ thuật thơ kém, thế trận chữ nghĩa xộc xệch thì bài thơ sẽ bị coi là hỏng, hoặc ít ra, giá trị cũng bị giảm đi rất nhiều.

Tạ Lỗi Trường Sơn (1982)
Xin trích mấy đoạn:

Các anh đến
Và nhìn Sài Gòn như thủ đô của rác
Của xì ke, gái điếm, cao bồi
Của tình dục, ăn chơi
“Hiện sinh – buồn nôn – phi lý!!!”

Các anh bảo con trai Sài Gòn không lưu manh cũng lính ngụy
Con gái Sài Gòn không tiểu thư khuê các, cũng đĩ điếm giang hồ
Các anh bảo Sài Gòn là trang sách “hư vô”
Văn hóa lai căng không cội nguồn dân tộc
Ngòi bút các anh thay súng
Bắn điên cuồng vào tủ lạnh, ti vi
Vào những đồ tiêu dùng mang nhãn Hoa Kỳ
Các anh hằn học với mọi tiện nghi tư bản
Các anh bảo tuổi trẻ Sài Gòn là “thú hoang” nổi loạn
Là thiêu thân ủy mị, yếu hèn
Các anh hùa nhau lập tòa án bằng văn chương
Mang tuổi trẻ Sài Gòn ra trước vành móng ngựa!!!


Và khi ấy
Thì chính “các anh”
Những người nhân danh Hà Nội
Các anh đang ngồi giữa Sài Gòn bắt đầu chửi bới
Chửi đã đời
Chửi hả hê
Chửi vào tên những làng quê ghi trong lí lịch của chính mình
Các anh những người nhân danh Hà Nội sợ đến tái xanh
Khi có ai nói bây giờ về lại Bắc!!!



Bây giờ
Những đứa con đang tự nhận mình “trong sạch”
Đang nói về quê mẹ của mình như kẻ ngoại nhân
Các anh
Đang ngồi giữa Sài Gòn nhịp chân
Đã bờm xờm râu tóc, cũng quần jean xắn gấu
Cũng phanh ngực áo, cũng xỏ dép sa bô
Các anh cũng chạy bấn người đi lùng kiếm tủ lạnh ti vi, casette, radio...
Bia ôm và gái
Các anh ngông nghênh tuyên ngôn ”khôn và dại”
Các anh bắt đầu triết lý “sống ở đời”
Các anh cũng chạy đứt hơi
Rượt bắt và trùm kín đầu những rác rưởi Sài Gòn thời quá khứ
Sài Gòn 1982 lẽ nào...
Lại bắt đầu ghẻ lở?


Tội nghiệp em
Tội nghiệp anh
Tội nghiệp chúng ta những người thành phố
Những ai ngổn ngang quá khứ của mình
Những ai đang cố tẩy rửa “lí lịch đen”
Để tìm chỗ định cư tâm hồn bằng mồ hôi chân thật (6)


Đỗ Trung Quân viết Tạ Lỗi Trường Sơn với tâm thế của dân Sài Gòn (miền nam) nên dù đã từng đi TNXP, từng khoác áo bộ đội giọng thơ cũng vẫn nặng mùi của bên thua cuộc. Đó là tập hợp một cách nghệ thuật những lời đốp chát, vỗ thẳng mặt, nói hằn học trong cơn giận dữ, phân định “mi”, “ta” rõ ràng. “Ta nói thẳng cho mi biết: Bây giờ cái bản mặt đạo đức giả của mi đã lộ ra. Những xấu xa bẩn thỉu ngày nào mi gán cho ta thì giờ này mi bẩn thỉu xấu xa còn nhiều hơn thế nữa.” Bài thơ này phía “ta” nghe rất sướng tai, nhưng phía “mi” thì “biết là nó nói đúng đấy nhưng cái kiểu ‘vuốt mặt mà không nể mũi’ như nó thì khó chấp nhận quá.”
Tôi không đi vào chi tiết của kỹ thuật thơ ca như một bài bình thơ nhưng cũng cần nói lên một điểm: đây là bài thơ rất hay; cảm xúc dạt dào, hồn thơ lai láng, hơi thơ rất mạnh, có khả năng lôi cuốn người đọc từ câu đầu đến câu cuối. Đặc biệt là nội dung (ở đây ý và tứ là một), tác giả đã “lội ngược dòng”, viết nên những vần thơ đối chọi vớì dòng thơ phải đạo, nói lên những điều bị coi là cấm kỵ, không ai dám nói dù là sự thật. Chính vì thế mà bài thơ phải chờ đến 27 năm sau mới được trình làng.
Và cũng nhờ ý tứ không trôi xuôi, không phải đạo ấy giá trị và sức hấp dẫn của bài thơ đã gia tăng đáng kể.


Nhìn Từ Xa Tổ Quốc (8/1988)

Xin trích vài đoạn chính:

Vâng – một thời không thể nào phủ nhậntất cả trôi xuôi – cấm lội ngược dòng
thần tượng giả xèo xèo phi hành mỡ
ợ lên thum thủm cả tim gan
………………………………..
Xứ sở nhân tìnhsao thật lắm thương binh đi kiếm ăn đủ kiểu
nạng gỗ khua rỗ mặt đường làng
Mẹ liệt sĩ gọi con đội mồ lên đi kiện
ma cụt đầu phục kích nhà quan
…………………………………………………………….
Xứ sở thật thàsao thật lắm thứ điếm
điếm biệt thự – điếm chợ – điếm vườn…
Ðiếm cấp thấp bán trôn nuôi miệng
điếm cấp cao bán miệng nuôi trôn
Vật giá tăng
vì hạ giá linh hồn
Ðạo Chích thành tôn giáo phổ thôngÀo ạt xuống đường các tập đoàn quân buôn
buôn hàng lậu – buôn quan – buôn thánh thần – buôn tuốt…
quyền lực bày ra đấu giá trước công đường
…………………………………………………….

Xứ sở bao dung
sao thật lắm thần dân lìa xứ
lắm cuộc chia li toe toét cười
Mặc kệ cỏ hoang cánh đồng gái góa
chen nhau sang nước người làm thuê
Biển Thái Bình bồng bềnh thuyền định mệnh
nhắm mắt đưa chân không hẹn ngày về
…………………………………………………………………..
Xứ sở kỷ cươngsao thật lắm thứ vua
vua mánh – vua lừa – vua chôm – vua chỉa
vua không ngai – vua choai choai – vua nhỏ…
Lãnh chúa xứ quân san sát vùng cát cứ
lúc nhúc cường hào đầu trâu mặt ngựa
Luật pháp như đùa như có như không
một người đi chật cả con đường
 (7)
…………………………………………………………..


Với tôi, đây là bài thơ rất hay, có thể nói là một “bài thơ lớn”, ngôn ngữ, hình tượng sắc sảo, thật và sống động; hơi thơ dài và mạnh, cảm xúc nóng bỏng, hồn thơ lai láng. Bằng tấm lòng yêu nước sắt son, bằng những vần thơ như dao sắc của mình, Nguyễn Duy đã gởi đến độc giả những lời tâm tình khó nghe nhưng rất thật; đó là những tiêu cực, những tệ nạn xấu xa của con người nói riêng và xã hội VN nói chung, mà sau hơn 13 năm chấm dứt chiến tranh vẫn tồn tại, vẫn hiện ra nhan nhản mà chưa được công khai nói đến. Ngay từ lúc mới phổ biến bài thơ đã gây sóng gió trên thi đàn, xôn xao dư luận. “Nó cũng như một giọt nước đầy ly, tạp chí Sông Hương đang có một số vấn đề mà gặp bài “Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc” này thành ra họ phải đình bản để kiểm điểm.” (8) Nhưng sau đó sóng gió cũng qua, sự thật vẫn là sự thật; bài thơ đã được chấp nhận và công khai in ấn.
Cả 2 bài thơ đều hay. Hơi thơ của TLTS mạnh hơn nên đọc lên nghe hấp dẫn hơn, sướng tai hơn. Còn Nguyễn Duy viết NTXTQ với tâm thế của bên thắng cuộc (con cưng của chế độ, được đi du học ở Nga, đầu tàu của phong trào Xã Hội Chủ Nghĩa) nhưng ông - đã rất khéo - nhân danh một con dân VN yêu nước, nói tiếng nói chung cho cả dân tộc, tầm nhìn xa hơn, nhắm đến khối độc giả lớn hơn. Hơn nữa, những vấn nạn ông đưa ra to lớn, nghiêm trọng hơn, lời trách móc của ông nhẹ nhàng nhưng nghiêm khắc hơn, “nỗi đau” trong thơ lớn hơn, nhân bản hơn, sâu sắc hơn.
ĐTQ và ND là 2 nhà thơ tài năng, kỹ thuật thơ nhuần nhuyễn, đã viết TLTS và NTXTQ trong lúc thi hứng ngất trời, để lại cho đời 2 bài thơ “rất nặng ký”. Nhưng chính ý tứ (ở đây là nội dung) của bài thơ – dám bước vào khu vườn cấm, lội ngược với dòng thơ phải đạo – đã khiến hai bài thơ đã hay lại càng thêm hấp dẫn.

              NAM QUỐC SƠN HÀ
           Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
           Tiệt nhiên phân định tại Thiên thư.
           Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
           Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

             SÔNG NÚI NƯỚC NAM

           Sông núi nước Nam, vua Nam ở
           Rành rành phân định tại sách trời
           Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
           Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời
           (Trần Trọng Kim dịch)

Năm 1076, hơn 30 vạn quân nhà Tống (Trung Quốc) do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược Đại Việt (tên nước Việt Nam thời đó). Lý Thường Kiệt lập phòng tuyến tại sông Như Nguyệt (sông Cầu) để chặn địch. Quân của Quách Quỳ đánh đến sông Như Nguyệt thì bị chặn. Nhiều trận quyết chiến ác liệt đã xảy ra tại đây nhưng quân Tống không sao vượt được phòng tuyến Như Nguyệt, đành đóng trại chờ viện binh. Đang đêm, Lý Thường Kiệt cho người vào đền thờ Trương Hống, Trương Hát ở phía nam bờ sông Như Nguyệt, giả làm thần đọc vang bài thơ trênNhờ thế tinh thần binh sĩ lên rất cao. Lý Thường Kiệt liền cho quân vượt sông, tổ chức một trận quyết chiến, đánh thẳng vào trại giặc. Phần vì bất ngờ, phần vì sĩ khí quân Đại Việt đang lên, quân Tống chống đỡ yếu ớt, số bị chết, bị thương đã hơn quá nửa. Lý Thường Kiệt liền cho người sang nghị hòa, mở đường cho quân Tống rút quân về nước, giữ vững bờ cõi nước Đại Việt. (9)

Ý và tứ của bài thơ giống nhau và rất rõ ràng, một người dân bình thường cũng có thể hiểu được, không cần giải thích. Lúc ấy ý niệm về Luật Quốc Tế (International Law) còn rất xa lạ. Tác giả đã khéo léo lồng ý tứ bài thơ – quan niệm về chủ quyền quốc gia - vào thuyết thiên mệnh, một học thuyết gần gũi với suy nghĩ của người dân. Ý thơ hay và đầy sức thuyết phục nên binh sĩ đã hết lòng chiến đấu và đã đánh thắng quân Tống, giữ vững cõi bờ Đại Việt. Nhờ ý tứ mới lạ và độc đáo đó bài thơ đã được xem là tuyên ngôn độc lập đầu tiên của đất nuớc. Hơn một ngàn năm trôi qua nó được tôn xưng là bài thơ có ý tưởng hay nhất của văn học Việt Nam và tôi tin rằng ngày nào nước Việt còn tồn tại bài thơ Nam Quốc Sơn Hà sẽ không bao giờ đi vào quên lãng.

 KẾT LUẬN

Cá nhân tôi, rất nhiều khi nẩy ra một ý thơ định ngồi dậy cầm bút viết thì nhận ra cái ý ấy người ta – không phải một mà vô số người – đã viết từ lâu rồi. Một đề tài về bất cứ khía cạnh nào của cuộc sống, thường là đã được - ở chỗ này hay chỗ khác, ở thời điểm này hay thời điểm khác, bằng cách này hay cách khác - đề cập đến. Cho nên nghĩ ra một ý tưởng hay, mới lạ, độc đáo để đưa vào thơ là cực kỳ khó. Chỉ có những tài năng đặc biệt, có khi phải nhờ may mắn, cộng thêm một chút duyên nữa mới có thể nghĩ ra, và đôi lúc, còn cần đến lòng dũng cảm vượt bậc mới dám viết về cái “ý mới” ấy. Còn số đông nhà thơ khác đều lũ lượt nối đuôi nhau tìm đến những đề tài muôn thuở: tình yêu, quê hương, chính trị xu thời, thị hiếu của đám đông và những đề tài phải đạo khác.
Đến đây tôi mới hiểu ra lời dặn dò của 2 ông bạn Mỹ, tuy có vẻ đối nghịch nhau nhưng bổ khuyết cho nhau và đều rất hữu lý. Nếu tổng hợp hai ý kiến ấy cộng với một số tìm hiểu của riêng tôi, vai trò của ý tứ trong thơ có thể được trình bày như sau:
Ý tưởng chính, đề tài của bài thơ có thể được chia làm mấy hạng (từ cao xuống thấp):
     1/ Cao đẹp, khai phóng, thăng hoa tâm hồn con người, hoàn toàn mới lạ, độc đáo. (Điều này có thể đạt được nhưng rất khó và rất hiếm)
     2/ Lách, thoát hẳn ra khỏi (hoặc ngược với) dòng thơ Phải Đạo.
     3/ Một hiện tượng, một lối sống, một cách nghĩ của một giai đoạn lịch sử đã lác đác có người viết đề cập đến nhưng chưa có tác phẩm nào xuất sắc.
     4/ Viết theo phong trào, xu hướng chính trị, theo thị hiếu của đám đông, chọn những đề tài muôn thuở (tình yêu, quê hương …), những con đường đã có hàng triệu dấu chân.
Nghĩ được một ý tưởng hay thì phải bắt lấy ngay vì bài thơ có ý hay, độc đáo sẽ được đánh giá cao gấp bội. Nhưng nếu thi hứng của mình cứ nghiêng về phía “đường xưa lối cũ” thì hãy chọn con đường ít dấu chân hoặc chưa có dấu chân nào đậm nét. Thi sĩ cũng có thể tạo một khung cảnh mới để tiếp cận đề tài (thí dụ: Sông Lấp); ý chưa được mới lạ thì ít nhất cũng có tứ hay.
Ý tứ là quan trọng đấy; tuy nhiên, còn quan trọng hơn chính là tay nghề của thi sĩ. Kỹ thuật thơ mà kém cỏi thì ý tứ có hay bài thơ cũng chìm xuồng, không thể nổi đình, nổi đám trong tâm hồn người đọc được
Tóm lại, Ý Tứ chỉ là một trong nhiều tiêu chí để thẩm định giá trị một bài thơ. Tìm được ý tưởng hay, hoàn toàn mới lạ, độc đáo (không phải dễ và không phải cứ nỗ lực là sẽ tim được) sẽ nâng giá trị bài thơ lên rất nhiều. Với thơ, ý tưởng là một tiêu chí rất khó đạt điểm tối đa. Tuy nhiên, nếu đặc biệt quan tâm đến việc chọn cách tiếp cận đề tài, tạo được khung cảnh thích hợp, bài thơ sẽ có tứ hay. Riêng về Ý, dù biết là cực khó để đạt được điểm 10 nhưng cũng đừng để phải ăn một con số không (0) to tướng.

League City 02/19/2016
Phạm Đức Nhì
Rất mong đón nhận phê bình chỉ điểm của người yêu thơ.

CHÚ THÍCH:
1/ Ở Mỹ, một nước thiên về kỹ nghệ và kinh doanh, thi sĩ rất tự hào xem mình là “động vật quý hiếm”
2/ Đằng Vương Các Tự (http://www.saimonthidan.com/?c=article&p=109)

4/ Chăn Trâu Đốt Lửa – Sâu Sắc Một Triết Lý Nhân Sinh, Đức Thọ (http://lucbat.com/news.php?id=3470)
5/ Tác giả mượn ý lời bình của chính mình cho mấy bài thơ xuất hiện trong bài viết.
6/ Tạ Lỗi Với Trường Sơn (http://dactrung.net/phorum/tm.aspx?m=482438)
7/ Tuyển tập “36 Bài Thơ” của Nguyễn Duy trong có bài NTXTQ, do nhà xuất bản Lao Động ấn hành năm 2007.

READ MORE - TẢN MẠN VỀ VAI TRÒ CỦA Ý TỨ TRONG THƠ - Phạm Đức Nhì