Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Saturday, July 4, 2015

RỒI CŨNG BUỒN NHƯ NƯỚC SÔNG SEINE - Thơ Nguyễn An Bình


Ảnh bìa
                            Tác giả Nguyễn An Bình


RỒI CŨNG BUỒN NHƯ NƯỚC SÔNG SEINE

Rồi cũng buồn như nước sông Seine
Em về trên những chiếc tàu quen
Dòng sông sương trắng mềm như lụa
Anh thầy hoàng hôn trong mắt em.

Bóng Eiffel nghiêng giữa trời mây
Lòng anh nhớ mãi dáng em gầy
Thương hạt nắng mai vàng suối tóc
Thoảng làn hương mỏng áo em bay.

Rồi cũng buồn như nước sông Seine
Lâu đài tượng đá ghế công viên
Anh ngỡ hồn mình thành cánh bướm
Em loài hoa mộng giấc mơ tiên.

Em đứng bên bờ sông nhớ thương
Paris lặng lẽ những chiều sương
Khăn quàng nào ấm mùa đông giá
Thăm thẳm bên trời tình hoài hương.

                             Nguyễn An Bình
                               Tháng 3/2015


READ MORE - RỒI CŨNG BUỒN NHƯ NƯỚC SÔNG SEINE - Thơ Nguyễn An Bình

CÔ ĐƠN - Thơ Nhật Quang

Hiển thị unnamed (1).jpg
      Tác giả Nhật Quang


CÔ ĐƠN

Một mình thầm trách hoàng hôn
Cớ sao chiều xuống bồn chồn lòng nhau
Thu vương lay lắt bóng sầu
Gió vương nỗi nhớ vò nhàu áng mây

Rưng rưng mi đẫm lệ cay
Trách mình hay trách ai đây hững hờ
Sầu nghiêng ngả bóng xuân mơ
Trăng khuya thổn thức bên bờ...mênh mang.

                                                 Nhật Quang
                                                 (TP. HCM)

READ MORE - CÔ ĐƠN - Thơ Nhật Quang

KHÔNG SỢ THỪA! CHỈ SỢ QUÁ MUỘN - Phạm Đức Nhì


       Tác giả Phạm Đức Nhì

KHÔNG SỢ THỪA! CHỈ SỢ QUÁ MUỘN

(Trao đổi với nhà văn Lê Xuân Quang 
về bài thơ Nhớ Rừng)

       Được người bạn cho biết là có “lời bình” liên quan đến bài viết Hai Cái Bẫy Nguy Hiểm Của Nhớ Rừng, tôi, theo lời chỉ dẫn vào trang web của nhà văn Lê Xuân Quang (lexuanquang.org). Ở đây tôi thấy nguyên văn bài viết của mình với một đoạn lời bình của nhà văn LXQ như sau:
                   
 LXQ: Cách suy nghĩ phân tích Thơ của ông Phạm Đức Nhì trong cảm thụ Thi ca có những’’phát kiến…mới’’ thiên về thực dụng chỉ nên dành cho nhà khoa học, sinh học, văn sĩ , nhà báo… Theo đó, con Hổ vốn dĩ là kẻ ác, cứ để nó chết trong cũi, cho nó ra là sẽ tiếp tục ăn thịt kẻ khác và thành’’kẻ độc tài… (toàn trị)’’, gây tai họa cho người …

  Ca dao, Thơ vốn dĩ kiệm lời lại đòi hỏi người thưởng thức phải cảm thụ bằng sự rung động của nhịp tim để kích thích trí tưởng tượng phong phú trong mỗi bộ não. ’’Dù trong dù đục’’ chỉ là ẩn dụ không phải trong đục cụ thể ở nước để…tắm. Con hổ bị giam nhốt chi là vật hình tượng nói về TỰ DO, KHÔNG PHẢI CON HỔ CHÚA SƠN LÂM NGOÀI ĐỜI… Thiết nghĩ’’cảnh báo’’ của nhà phê bình Phạm Đức Nhì trở nên thừa, thậm chí lạc ra ngoài biên của tư tưởng của Thi sĩ trứ danh Thế Lữ khi ông gửi gắm nỗi niềm trong bài thơ NHỚ RỪNG !
 
Đọc xong đoạn lời bình dẫn nhập của nhà văn LXQ tôi có mấy nhận xét sau đây:

     1/ Ông đăng kèm cả bài viết của tôi với lời bình. Đó là cách đối xử rất công bằng với người được (bị) phê bình. Một số nơi khác có khi người ta chỉ trích dẫn một vài đoạn để phân tích rồi bình phẩm.

     2/ Ông đặt đoạn lời bình ở phía trước nên người đọc đã bị ông “đầu độc” trước khi đọc bài viết của tôi. Đó là thủ thuật hơi “ác” nhưng theo tôi, vẫn chấp nhận được, vì xét về lý, không phạm luật tranh biện.

     3/ Những điểm cần phê bình ông chỉ ra rất cụ thể, rõ ràng, và nhận định của ông thẳng thắn, dứt khoát.

     4/ Lời lẽ, giọng điệu của lời bình rất lịch sự, hòa nhã.

Lời bình của ông có thể tóm tắt thành 3 điểm chính:

     1/ “Dù trong dù đục” chỉ là ẩn dụ, không phải trong đục cụ thể ở nước để … tắm.

     2/Con hổ giam nhốt chỉ là vật hình tượng nói về Tự Do, Không Phải Con Hổ Chúa Sơn Lâm Ngoài Đời.

     3/ Thiết nghĩ “cảnh báo” của nhà phê bình Phạm Đức Nhì trở nên thừa, thậm chí lạc ra ngoài biên của tư tưởng của thi sĩ trứ danh Thế Lữ khi ông gởi gắm nỗi niềm trong bài thơ Nhớ Rừng.

Và bây giờ tôi xin trao đổi với ông Lê Xuân Quang từng điểm một:

     1/ “Dù trong dù đục” chỉ là ẩn dụ, không phải trong đục cụ thể ở nước để … tắm.

Nói nôm na cho dễ hiểu thì ẩn dụ - ở đây là ẩn dụ toàn bài - là “nói cái này mà ngụ ý cái kia”.

     Thí dụ 1:

                    Bầu ơi thương lấy bí cùng
                    Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn

Cái được nói đến (cái này): bầu và bí chung một giàn, nương nhau mà sống.
Cái được ngụ ý (cái kia): người trong một cộng đồng, một nước phải nương nhau, yêu thương nhau để cùng chung sống trong hòa bình,

Phép ẩn dụ ở đây kín kẽ vì:

Hiểu theo nghĩa đen (cái này: bầu bí chung một giàn, nương nhau mà sống) cũng đúng, cũng hợp lý.

Hiểu theo nghĩa bóng (cái kia: người trong một cộng đồng, một nước phải nương nhau, yêu thương nhau để cùng chung sống trong hòa bình, đùm bọc) cũng hợp tình, hợp lý.

Cái này hoàn toàn ăn khớp, tương xứng với cái kia

     Thí dụ 2:

                    Thân em như quả mít trên cây
                    Da nó xù xì múi nó dầy
                    Quân tử có thương thì đóng cọc
                    Xin đừng mân mó nhựa ra tay.
                    (Quả Mít, Hồ Xuân Hương)

Nữ sĩ Hồ Xuân Hương kiêm diễn viên xiếc trổ tài đi dây; một sợi dây bên Quả Mít và sợi dây bên kia là cái chuyện “ấy” của trai gái mà bà muốn bóng gió nói đến. Ngoài câu mở đầu có tính chất giới thiệu, 3 câu còn lại đều diễn tả những bộ phận và hành động rất tương xứng của hai bên. Quả mít thì da xù xì, múi dầy; bộ phận quý giá nhất của phụ nữ cũng thế. Với quả mít “quân tử có thương thì đóng cọc”; chuyện “ấy” của trai gái cũng y chang. Quả mít khuyên “xin đừng mân mó nhựa ra tay” thì khi trai gái yêu nhau “nếu mân mó ắt hẳn nhựa cũng sẽ ra tay”, nghĩa là rất tương hợp. Bà Hồ Xuân Hương đã thành công mỹ mãn trong màn xiếc đi dây của mình. Phép ẩn dụ của bài thơ rất tuyệt.

Trong hai thí dụ trên, tác giả đã chọn được cái này cân xứng, tương hợp với cái kia. Hiểu theo nghĩa đen cũng hợp nghĩa, hợp lý, hợp tình. Mà suy tưởng qua nghĩa bóng cũng rất hợp tình, hợp lý. Không có chỗ hở để vặn vẹo, bắt bẻ. Đây là những phép ẩn dụ hoàn hảo.

Bây giờ trở lại câu ca dao:

                    Ta về ta tắm ao ta
                    Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn

Nghĩa đen: dù trong dù đục về tắm ao nhà vẫn hơn.

Nghĩa bóng: dù tốt, dù xấu cũng nên dùng hàng nội hóa (không dùng hàng ngoại) để giúp kinh tế nước nhà phát triển.

Nghĩa đen và nghĩa bóng (cái này và cái kia) rất tương xứng nhưng trong đời sống thực tế thì lại không hợp tình. Ao nhà bẩn quá thì cũng phải muối mặt đi tắm nhờ chứ cứ lao bừa xuống tắm, có ngày mắc bệnh … ghẻ. Hàng nội mà xấu quá, tệ quá thì cũng đành - bỏ chuyện kinh tế nước nhà qua một bên - đi mua hàng ngoại chứ ai dại gì bỏ tiền ra mua thứ vừa xấu mã vừa kém phẩm chất, chưa dùng đã hỏng.

Phép ẩn dụ này không kín kẽ, dễ bị bắt bẻ, vặn vẹo.

Như vậy “dù trong dù đục” là ẩn dụ (thật ra phải nói là nghĩa bóng mới đúng) nhưng cũng là trong đục cụ thể ở nước để … tắm (nghĩa đen)

     2/ Con hổ giam nhốt chỉ là vật hình tượng nói về Tự Do, Không Phải Con Hổ Chúa Sơn Lâm Ngoài Đời.
Nhà thơ Thế Lữ mượn lời con hổ (bị giam nhốt) trong vườn bách thú để “gửi gắm nỗi niềm” nên chúng ta có phép ẩn dụ:

     Cái được nói đến: lời con hổ trong vườn bách thú.
     Cái được ngụ ý: nỗi niềm của tác giả.

Như vậy con hổ ở đây là con hổ thật nhưng không phải con hổ Chúa Sơn Lâm ngoài đời mà là con hổ trong vườn bách thú và tác giả đã mượn nó làm hình tượng nói về Tự Do.

     3/ Thiết nghĩ “cảnh báo” của nhà phê bình Phạm Đức Nhì trở nên thừa, thậm chí lạc ra ngoài biên của tư tưởng của thi sĩ trứ danh Thế Lữ khi ông gởi gắm nỗi niềm trong bài thơ Nhớ Rừng.

Bài thơ Nhớ Rừng có ngôn ngữ cao sang. Cả 47 câu thơ, câu nào cũng đúng, cũng hợp với khẩu khí của con hổ. Từ tâm trạng bực bội vì bị xếp ngang hàng với những loài hèn kém trong khung cảnh gò bó, tù túng của cũi sắt vườn bách thú đến nỗi nhớ thương tiếc nuối những ngày còn là Chúa Sơn Lâm trong rừng sâu núi thẳm. Từ niềm uất hận phải sống giữa cảnh trí tầm thường giả dối do con người sắp đặt đến thái độ bó tay cam chịu nhưng vẫn khao khát tự do trong “giấc mộng ngàn to lớn”. Nhất nhất cứ như con hổ thật, biết nói tiếng người, đang tâm sự với độc giả. Cảm xúc dạt dào, hơi thơ rất mạnh khiến dòng thơ cứ băng băng tuôn chảy.

Nếu là bài bình thơ thì tôi sẽ phân tích kỹ hơn, nhưng ở đây tôi chỉ xin nói đến hai điểm “xấu”, hai thái độ tiêu cực của con hổ.

     1/ Con hổ hoàn toàn buông tay, tuyệt vọng.

       Đây là lời con hổ:

Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hùm thiêng ta ngự trị,
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa
Nơi ta không còn được thấy bao giờ!

Nỗi niềm khao khát tự do của con hổ rất kỳ lạ. Thích tự do nhưng không tìm, không có kế hoạch để xin, để đòi tự do, để vượt ngục. Cứ lặng lẽ ngồi mơ, mong một phép mầu nào đó xảy ra. Nếu Thế Lữ viết: “Nơi ta chắc không còn thấy bao giờ” thì còn có chút hy vọng, dù rất mong manh. Đàng này lại là “Nơi ta không còn được thấy bao giờ” – nghĩa là khẳng định 100% ; con hổ đã hoàn toàn tuyệt vọng, xuôi tay cam chịu. Đây rõ ràng là lời thơ Thế Lữ, nỗi niềm của Thế Lữ cho nên ông LXQ gán cho tôi cái tội “lạc ra ngoài biên tư tưởng…” là ông đã đổ oan cho tôi rồi đấy.

     2/ Con hổ lúc nào cũng mơ “giấc mộng ngàn to lớn”

Cái tính ham hố địa vị, quyền hành, lúc nào cũng mơ tưởng đến cái thời còn là Chúa Sơn Lâm, cai quản cả một vương quốc núi rừng rộng lớn đã nằm trong máu thịt, xương cốt của con hổ. Chính Thế Lữ cũng đã cho con hổ nói lên tâm sự của nó:

               Trong hang núi mắt thần khi đã quắc
               là khiến cho mọi vật đều im hơi
               ta biết ta chúa tể của muôn loài

Đó là cái tính lúc nào cũng muốn ra oai, sẵn sàng lấn lướt, hiếp đáp người khác. Và đó cũng rõ ràng là những câu thơ trong Nhớ Rừng, là nỗi niềm của Thế Lữ. (Ông LXQ thấy đấy! Tôi vẫn dựa vào văn bản để nói, phân tích chứ không hề đi “lạc ra ngoài biên tư tưởng …”)

Tóm lại, Nhớ Rừng là bài thơ hay; hay về ngôn ngữ, kỹ thuật, về cảm xúc. Riêng về ý tưởng thì lại là chuyện khác. Nếu bảo Thế Lữ đã gởi gắm nỗi niềm vào con hổ trong vườn bách thú thì ông đã “trao duyên lầm kẻ xấu”. Con hổ này chí khí thì không có gì ghê gớm. Chỉ được cái giọng điệu, thái độ cao ngạo vì đã có một thời làm vương, làm tướng – không phải do tài năng mà là nhờ “con ông cháu cha”, nhờ huyết thống, nòi giống của mình. Bị giam hãm thì lúc nào cũng tiếc nuối quá khứ, mơ “giấc mộng ngàn to lớn”, được trở lại làm Chúa Sơn Lâm hét ra lửa, mửa ra khói nơi núi rừng nhưng lại hèn nhát buông tay cam chịu, không hề có ý định chứ đừng nói gì đến quyết tâm đào thoát tìm tự do.

Mấy tuần qua nước Mỹ rúng động vì cuộc vượt ngục của hai tù nhân giết người trong một trại giam an ninh cực cao ở New York. Sau hơn 3 tuần lễ truy đuổi, một bị bắn chết và một bị bắt lại. Chi phí cho việc truy đuổi được ước tính lên đến trên 1 triệu đô la mỗi ngày (1). Tôi hoàn toàn lên án tội ác của hai tù nhân này và muốn họ phải tiếp tục chịu hình phạt như công lý đã xét xử. Nhưng nếu nói về niềm khao khát tự do thì họ đã hơn hẳn con hổ, cái hình tượng tự do (chữ của ông LXQ) của Thế Lữ; họ đã tìm tay trong giúp đỡ, thu góp dụng cụ cần thiết, chuẩn bị kế hoạch và cuối cùng đã dám đem sinh mạng của mình để đổi lấy tự do.

Giai đoạn còn đi làm chế biến hải sản (seafood), những lúc không có hàng nằm nghỉ dài dài ở nhà tôi thường làm thơ, đọc sách và xem phim. Cuốn phim tôi thích nhất, xem đi, xem lại nhiều lần nhất là Bố Già (The Godfather). Khi phát hành (năm 1972) Bố già đã trở thành bộ phim ăn khách nhất tính cho đến thời điểm đó với doanh thu hơn 5 triệu USD trong tuần đầu và hơn 81 triệu USD cho lần phát hành đầu tiên, 134 triệu USD cho lần phát hành tiếp theo. Bố Già đã giành được 3 giải Oscar, 5 giải Quả Cầu Vàng, 1 giải Grammy và nhiều giải khác. Sau này bộ phim được coi là một trong những tác phẩm hay nhất của lịch sử điện ảnh. (2)

Khoảng 7, 8 năm trước và rồi đầu năm nay (2015), khi phim Bố Già được chiếu đi chiếu lại liên tục, có khi suốt ngày (marathon) ở giữa có cả phần phát biểu của các diễn viên chính và những người liên quan đến việc sản xuất bộ phim, tôi ghi nhận được một chi tiết lý thú. Đó là sau khi Bố Già được trình chiếu một thời gian, báo chí đã tiết lộ những số liệu của chính phủ cho biết “tệ nạn băng đảng đã gia tăng ở mức độ đáng lo ngại.” Số lượng băng đảng nhiều hơn trước. Các băng đảng lớn mạnh hơn, tổ chức chặt chẽ hơn. Thành viên của mỗi băng đảng đông hơn, trong đó con số thành viên mới đã tăng trưởng mạnh mẽ hơn rất nhiều. 

Ai cũng biết băng đảng là xấu xa, tội lỗi. Bước vào là tay dính chàm, phạm đủ loại tôi ác. Từ tống tiền, kinh doanh khách sạn, sòng bài, cá độ, đĩ điếm … đến giết người, có khi hàng loạt, kể cả anh em ruột thịt (Gia đình Ông Trùm Corleon không dính đến ma tuý). Rồi còn tù tội chết chóc lúc nào cũng rình rập, đợi chờ, mặc cảm tội lỗi lúc nào cũng ám ảnh lương tâm. Như vậy tại sao đám thanh niên trẻ - sau khi xem Bố Già - lại hăng hái gia nhập các băng đảng Mafia? Sức hấp dẫn của Bố Già ở chỗ nào? Một số nhà báo đã đưa ra mười mấy lý do. Tôi chỉ xin ghi ở đây vài lý do chính: 

Giúp đỡ người cô thế, yếu đuối.
Đãi ngộ tốt những người làm việc cho mình.
Đã hứa là giữ lời.
Coi gia đình là quan trọng nhất.
Thiết lập tình bằng hữu bằng sự tôn trọng, công việc và lòng tin.
Không hành động theo cảm tính.
Vũ lực là lựa chọn sau cùng.
………………………
Trong phim đạo diễn đã khéo léo phô diễn những tính tốt, tính anh hùng mã thượng của Ông Trùm. Mặt trái của Mafia xuất hiện ít hơn.

Là một nước mà Tự Do Ngôn Luận được tôn trọng và bảo vệ tối đa, chính phủ Mỹ đã không có quyền thu hồi hoặc cấm chiếu phim Bố Già (dù rất muốn) với lý do là nó đã tác hại đến vấn đề tội phạm của quốc gia. Nhà chức trách đã phải tìm một giải pháp khác. Đó là gợi ý (hoặc ngầm yểm trợ) để giới phim ảnh làm những bộ phim khác lột trần bộ mặt thật của Mafia để giải độc. Những bộ phim GoodFellas (3). The Making of the Mob (Sự Hình Thành Của Mob) (4) … được sản xuất đã có  hiệu quả này.

Nhớ Rừng của Thế Lữ cũng gần giống như vậy. Cái tốt, cái xấu lẫn lộn. Cái tốt được tài thơ của tác giả hết sức phô trương. Cái xấu khá mờ nhạt, phải để ý kỹ mới thấy. Nhưng được dòng cảm xúc thơ chuyển tải, nó có khả năng thấm dần vào tim óc người đọc. Tôi không biết là có thực sự có không, cái quan hệ nhân quả giữa “nọc độc của Nhớ Rừng” với cách ứng xử của con người Việt Nam, bởi chưa có ai quan tâm nghiên cứu về vấn đề này. Nhưng qua việc theo dõi tin tức về quê hương Việt Nam hàng ngày, có khi hàng giờ, qua mấy lần về Việt Nam, mỗi lần hàng mấy tháng, đi từ nam ra bắc, tiếp xúc với đủ hạng người - từ nghèo khổ, thất học đến những người giầu có, bằng cấp cao, có chức tước trong chính quyền - tôi đã cảm thấy một điều đáng sợ. Nhiều người Việt Nam không phải chỉ mới nhiễm HIV mà chứng bệnh SIDA Nhớ Rừng - cả loại 1 lẫn loại 2 - đã phát tác, đã tàn phá, không phải thể xác mà là tâm hồn họ và có thể đã lây lan đến cả thế hệ trẻ sau này.
Để kết luận tôi muốn nói với ông Lê Xuân Quang một câu chân tình. Tôi không sợ lời cảnh báo của tôi thừa. Tôi chỉ sợ nó quá muộn.

Galveston, Texas 07/2015
Phạm Đức Nhì
nhidpham@gmail.com

Chú thích và (hoặc) tham khảo:
1/  http://www.vox.com/2015/6/9/8751483/prison-escape-manhunt
2/  Wikipedia Tiếng Việt https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%91_gi%C3%A0_(phim)
3/  https://en.wikipedia.org/wiki/Goodfellas
4/  https://en.wikipedia.org/wiki/The_Making_of_the_Mob:_New_York

Phụ Chú:

HAI CÁI BẪY NGUY HIỂM CỦA “NHỚ RỪNG”
(Nhân đọc mấy bài bình Nhớ Rừng trên vài trang web tiếng Việt)

Muốn khuyên người dân xài hàng nội hoá một cô khá đẹp, giữ chức vụ cao trong chính phủ, khi trả lời phỏng vấn đã viện dẫn hai câu ca dao:

      “Ta về ta tắm ao ta
        Dù trong, dù đục ao nhà vẫn hơn”

Cô này liền bị một đấng mày râu chơi xỏ: “Xin nghiêng mình kính phục cái tinh thần tự lực cánh sinh, độc lập tự chủ của cô. Chỉ tiếc rằng một người đẹp như cô lại chấp nhận… ở dơ.” (Dù trong dù đục ao nhà vẫn … tắm) Phép ẩn dụ của câu ca dao trên không kín kẽ, không che chắn được hết mọi bề nên nàng yểu điệu thục nữ kia đành phải ngậm bồ hòn làm ngọt.

Bài thơ Ngọn Cỏ cũng thế. Chọn cái tư thế đứng đái của phụ nữ để ngụ ý rằng phụ nữ có thể sánh vai cùng nam giới, bình đẳng với nam giới, là một phép ẩn dụ rất hay, rất ý nhị nhưng không kín kẽ, giống như thuốc chữa được bệnh nhưng lại có phản ứng phụ.

Phép ẩn dụ biến thể của Nhớ Rừng cũng có 2 phản ứng phụ. Đó là 2 cái bẫy đối với những ai yêu thích nó. Những ai mê cái chí lớn, cái khẩu khí Chúa Sơn Lâm của con hổ rất dễ sập 2 cái bẫy này.

1/ Con hổ trong vườn bách thú tuy vẫn khao khát tự do, vẫn mơ “giấc mộng ngàn to lớn” nhưng đã mất hết ý chí chiến đấu, đã đành bó tay cam chịu, chấp nhận thực tại phũ phàng.

Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hùm thiêng ta ngự trị,
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa
Nơi ta không còn được thấy bao giờ!

Đó là thái độ tuyệt vọng, cam chịu, rất thực tế, biết mình biết người, rất đúng với hoàn cảnh của con hổ trong vườn bách thú.

2/ Con hổ khao khát tự do. Nhưng nếu được tự do nó sẽ trở thành một bạo chúa, áp dụng chế độ độc tài với “thần dân” của nó.

Trong hang tối, mắt thần khi đã quắcLà khiến cho mọi vật đều im hơi.Ta biết ta chúa tể muôn của loài
Cái tính muốn làm bạo chúa đã là máu thịt, đã là bản chất của loài hổ. Đó là một thực tế không thể chối cãi.
Cái khe hở của câu ca dao và Ngọn Cỏ nằm ở vế thứ nhất (tứ). Khe hở của Nhớ Rừng nằm ở vế thứ hai (ý), thông điệp kín mà tác giả muốn gởi đến, muốn nó thấm vào tâm hồn độc giả. Trong hoàn cảnh khắc nghiệt của cuộc sống - đặc biệt là của người dân Việt Nam, luôn luôn phải chịu cách đối xử áp bức, trịch thượng, bất công của ngoại bang – thái độ tuyệt vọng, cam chịu, không còn muốn chiến đấu rất dễ thuyết phục người dân, rất dễ thấm vào đầu họ bởi không đòi hỏi phải nỗ lực, nhấc tay nhấc chân, không phải đối diện với nguy hiểm, mất mát, tù tội, chết choc, hy sinh, cứ lặng lẽ sống cam chịu ngày này qua ngày khác.

Đối với tinh thần vương tướng, độc tài thì khỏi nói. Ý niệm dân chủ tự do chỉ mới xuất hiện trên bình diện chữ nghĩa. Người dân Việt chưa được sống trong một xã hội thực sự dân chủ tự do. Khi thời cơ đến, người ta khó tránh khỏi sức cám dỗ của chức vị Chúa Sơn Lâm, thâu tóm quyền hành tuyệt đối về phe nhóm mình.

Là con người, liệu “Ta có chấp nhận thái độ cam chịu, buông xuôi, tuyệt vọng như con hổ không?” Khi được thoát cũi xổ lồng ta có giống con hổ trở thành ông vua độc tài chà đạp tự do của người khác không? Nếu câu trả lời là Không thì hãy đọc Nhớ Rừng như một bài thơ hay, diễn tả hùng khí và tâm trạng tuyệt vọng của con hổ trong vườn bách thú. Đừng “ghé” vào, hoặc xúi bảo con cháu “ghé” vào bài thơ để “dây máu ăn phần”, để được “ké” tý hùng khí của nó. Cái giá phải trả để có tý hùng khí đó - đặc biệt với lớp trẻ - là rất đắt. Không thể nói ta chỉ “thưởng thức” cái chí lớn của con hổ, còn những tính xấu của nó thì ta lờ đi. Những tính xấu đó đã là máu thịt của con hổ (đặc biệt là con hổ trong vườn bách thú), đã thấm đẫm vào bài thơ, làm sao có thể tách rời ra được.

Nhớ Rừng giống như cô gái nhảy xinh đẹp, thân hình sexy, hấp dẫn nhưng mắc chứng bịnh SIDA nguy hiểm. Chứng bệnh này không có những biểu hiện rõ rệt ở bên ngoài nên rất khó nhận biết bằng mắt thường. Ai ham hố “dính vào” để được hưởng lạc thú ái ân với cô thì sẽ nhiễm HIV. Vi khuẩn HIV sẽ tiềm ẩn trong máu, đến một lúc nào đó sẽ bộc phát và hậu quả sẽ khó lường.

Không biết từ lúc xuất hiện và được ngợi ca đến nay Nhớ Rừng đã khiến bao nhiêu người sập bẫy. “Cẩn tắc vô áy náy”. Hãy coi đoạn văn ngắn này như một lời cảnh báo … muộn màng.


                                                 Phạm Đức Nhì

READ MORE - KHÔNG SỢ THỪA! CHỈ SỢ QUÁ MUỘN - Phạm Đức Nhì

MẠN ĐÀM VỀ "TAM NAM BẤT PHÚ" - Đặng Xuân Xuyến


             
             MẠN ĐÀM VỀ "TAM NAM BẤT PHÚ"
                                                                            Đặng Xuân Xuyến 


Ngạn ngữ người Việt có câu:
         “Tam nam bất phú
          Tứ nữ bất bần”

Hiểu đơn giản:
Gia đình nào sinh được (chỉ) 3 người con trai thì gia đình đó không thể giàu. Còn gia đình nào sinh được (chỉ) 4 người con gái thì gia đình đó không thể nghèo.
Lý do:
Con trai thường hay lêu lổng, không chí thú làm ăn, cha mẹ lại phải chi phí những việc lớn cho các “quý tử” như: Học hành, cưới vợ, làm nhà... nên tốn hết tiền bạc của cha mẹ đã kiến tạo, vì thế mới nghèo.
Con gái thường chịu thương chịu khó, cha mẹ không phải chi phí các việc lớn như gia đình có con trai nên tiền của tích góp được mà trở nên giàu. (Ngày xưa con gái không được đi học, khi lấy chồng thì cơ bản gia đình chồng lo cho đám cưới (thông qua thách cưới của họ nhà gái)
Đấy là hiểu đơn giản là sinh nhiều (3) con trai sẽ nghèo nhưng theo thiển nghĩ của tôi thì cổ nhân chỉ mượn câu “tam nam bất phú” để ám chỉ điều “huyền bí và tối kỵ” của con số 3 huyền cơ trong văn hóa tín ngưỡng của người Việt, nếu không đã không có câu “Tứ tử trình làng” để nói về sự vinh hoa phú quý của một gia đình khi sinh được bốn người con trai (?). Ngay trong câu “Tam nam bất phú / Tứ nữ bất bần” đã là một đôi câu đối hoàn chỉnh về sự huyền bí (sinh, tử, sang, hèn...) của các con số 3 và 4 trong tín điều của người Việt. Rất tiếc, tôi mò mẫm mà đoán vậy, chứ trình độ và sự hiểu biết của tôi chỉ a bờ tờ nên không thể hiểu để lý giải được ẩn ý của người xưa khi nhắc tới con số 3 trong “tam nam bất
 phú”, vì thế mới giãi bày lên đây để mong nhận được sự chỉ giáo quý báu của quý vị.
Trở lại với câu ngạn ngữ: Tam nam bất phú / Tứ nữ bât bần xem thực tế (chỉ có 3 trai hoặc 4 gái) có phải vậy không?
Thật sự rất khó đưa ra câu trả lời vì nếp sống bao đời của người Việt về đường con cái là phải “có nếp có tẻ”, phải có “thằng cu nối dõi” nên sẽ rất hiếm trường hợp nhà “chỉ có 3 thằng con trai” hoặc “chỉ có 4 đứa con gái”. Vì thế , “đối tượng” tra cứu cần được mở rộng: Nhà có 3 anh em trai + 1, 2 chị (em) gái và nhà có 4 chị em gái + 1, 2 anh (em) trai.
Vậy trong trường hợp: 3 TRAI + 1, 2 GÁI thì lời đúc kết của cổ nhân có đúng thế không?
Xin thưa: Không phải vậy! Thực tế, nhiều gia đình sinh 3 con trai mà kinh tế (bố mẹ) vẫn thuộc diện khá giả, có gia đình còn thuộc diện giàu “nứt đố đổ vách”, “tư sản hiện đại”. Sự giàu có đó còn kéo dài đến tận đời con, đời cháu sau này...
Vậy nên hiểu câu: “Tam nam bất phú” như thế nào? Theo thiển ý của người viết, chữ phú ở đây không nên hiểu theo nghĩa chỉ sự giàu có mà hiểu theo nghĩa chỉ sự phú quý thì mới thấy được “ẩn ý” mà cổ nhân đúc kết.
Qua kiểm chứng những gia đình có 3 anh em trai (chỉ 3 anh em trai rất hiếm gặp, mà cơ bản có thêm chị em gái) tôi thấy thường sảy ra (ít nhất là 2/3) các tình huống
- Bất hòa trong gia đình, kể cả sau này khi 3 anh em trai đã yên bề gia thất.
- Tai họa sảy ra cho 1 trong 3 người con trai: Nặng thì có người chết sớm (thường là chết trẻ, chưa có con cái), nhẹ thì bị tàn tật như thối tai, què chân hoặc những chứng bệnh nan y khó chữa..
- Đường hôn nhân của 1 trong 3 anh em trai gặp phải trắc trở, thiếu may mắn, không được trọn vẹn.
Có lẽ, đây mới là điều mà cổ nhân đúc kết: Nhà có 3 anh em trai thì khó có được sự phú quý, phúc thọ.
Tôi đã vào google để tra cứu những “liên quan” về câu ngạn ngữ TAM NAM BẤT PHÚ nhưng rất tiếc, kể cả làm thế nào để cải “tam nam bất phú” cũng không tìm được nên đành mạo muội đưa ra đề xuất như sau:
- Ba anh em trai nên sống xa nhau (về khoảng cách địa lý), càng xa càng tốt.
- Bố mẹ nên nhận một người con trai làm nghĩa tử, hoặc nếu bố mẹ khuất bóng rồi thì ba anh em cùng nhận thêm một anh hoặc em trai kết nghĩa.
- Nên làm con nuôi dòng họ khác (gia đình nghĩa phụ phải có con trai) để tránh cảnh huynh đệ tương tàn và đem lại may mắn cho bản thân.
- Lấy đức để cải số.
Vài dòng tản mạn về câu thành ngữ: TAM NAM BẤT PHÚ, hy vọng sẽ nhận được chỉ giáo của mọi người để câu thành ngữ TAM NAM BẤT PHÚ không còn là nỗi ám ảnh, hãi sợ của nhân gian...

                                                                 Đặng Xuân Xuyến

                                               Hà Nội, ngày 07 tháng 12 năm 2012

READ MORE - MẠN ĐÀM VỀ "TAM NAM BẤT PHÚ" - Đặng Xuân Xuyến

Chiều Trên Sông Thạch Hãn - Ảnh Văn Kế Thế

(Bấm chuột vào ảnh để xem to hơn)


READ MORE - Chiều Trên Sông Thạch Hãn - Ảnh Văn Kế Thế

TIẾNG GÀ TRƯA & NỖI NHỚ THƯƠNG HOÀI NIỆM MỘT ĐỜI - Tạp bút Mang Viên Long





Mang Viên Long    

TIẾNG GÀ TRƯA

& NỖI NHỚ THƯƠNG HOÀI NIỆM MỘT ĐỜI

Tạp bút

          
       Ở đâu đó trong các làng quê, ngỏ hẻm hay phố thị Việt Nam ngày xưa, tiếng gà gáy trưa vẫn thỉnh thoảng vang lên, rời rạc, đơn độc, giữa trưa hè oi nồng im vắng, nhưng âm thanh ấy lại có sức cuốn hút thật lâu dài trong lòng người như điệp khúc quen thuộc mà thật da diết của Quê Nhà…

       Tiếng gà vang lên trong nắng trưa hanh vàng, trong nỗi lặng lẽ của đời sống tạm ngưng nghỉ sau một buổi quần quật bươn chải vì cơm áo.

       Âm thanh ấy, có lắm người nghe quen đến nỗi chằng hề để ý, thậm chí không lưu lại chút cảm xúc nào. Cứ mặc cho tiếng gà eo óc cô đơn… Cho đến một ngày, chợt nghe tiếng gà trưa vọng lại, và lòng bỗng rộn lên một niềm hoải cảm mênh mông…

       Tiếng gà gáy trưa khác hơn tiếng gà gáy buổi sáng: Âm thanh khô khốc bất chợt vang lên, lẻ loi, rồi lặng im ngay sau đó! Lặng im cùng cái nắng oi bức nặng trĩu. Âm thầm cùng cõi vô cùng của đất trời hiu quạnh chung quanh! Nếu là người đang xa quê – tha hương, thì âm thanh đơn điệu cũ càng ấy sẽ trổi dậy, ray rức, thôi thúc, mãnh liệt hơn - một nỗi niềm diệu vợi xa xôi chẳng bao giờ dứt. Tiếng gà trưa âm vang mãi mãi trong nỗi nhớ thương hoài niệm một đời biển dâu, chìm nổi!

        Nhà thơ Hoàng Lộc đã bắt gặp “tiếng gà trưa”  nơi phố người hoa lệ từ bên kia đại tây dương và đã thao thức, đã dằn vặt với bao nỗi nhớ Quê tha thiết không cùng trong một trưa khó ngủ nơi xứ người theo tiếng gà xao xác vọng lại từ nhà một hàng xóm:

            
“ông bạn Mễ xứ người kiếm sống              
còn mang theo trưa những tiếng gà              
ta nhiều năm nỗi đời nỗi mộng              
ơn láng giềng thêm nỗi quê xa...”                
                                 (Qua Vườn Nhà Một Hàng Xóm Mễ Tây Cơ, Nghe Tiếng Gà Trưa)

           Sự nhạy cảm quá đổi tinh tế của nhà thơ làm sống dậy nỗi xúc dộng dịu dàng mà sâu thẳm vì “tiếng gà trưa” lạ lẫm trong thinh vắng của cõi người đã khiến nhà thơ chợt nhận ra cái tầm thường - rất tầm thường của đời sống quanh anh, mà bấy lâu chưa nhận thấy:
           
“ông bạn Mễ xứ người kiếm sống              
còn mang theo trưa những tiếng gà”

           Dù đã lưu lạc xứ người vì cơm áo nhưng ông bạn làng giềng không hề quên quê hương, kỷ niệm, người thân yêu của mình nơi một làng quê xa xôi cách biệt nào đó tận xứ Mễ Tây Cơ! Vẫn còn “mang theo trưa những tiếng gà” bên đời sống lận đận viễn xứ bao năm! Biết người, nghĩ lại mình:

           
“ta nhiều năm nỗi đời nỗi mộng             
ơn láng giềng thêm nỗi quê xa…”

           Nhiêu năm tháng thăng trầm vì “nỗi đời/ nỗi mộng”. Nhiều năm tháng biền biệt quê xa. Bao lần khắc khoải nhớ thương “thực/mộng”. Và ngay lúc nầy đây, “qua vườn nhà một hàng xóm Mễ Tây Cơ”, nhà thơ đã thêm vào “cõi đời/ cõi mộng”  nỗi nhớ “quê xa” ngày càng quặn thắt, tràn đầy. Nếu không đáu đáu bên lòng một nỗi nhớ quê son sắt, nếu không tiềm ẩn một tình thương yêu quê nhà thường trực thôi thúc réo gọi bên đời thì làm sao một “tiếng gà trưa” đã khơi dậy một trời đau xót nhớ nhung?

         Tôi bỗng nhớ đến nhạc sĩ – nhà thơ Văn Cao trong “Mùa Xuân Đầu Tiên” đã không “vô tình” khi đưa “tiếng gà trưa” vào đoạn cuối của ca khúc để bật lên tiếng lòng chân thật nhất, thiết tha nhât, bi thương nhất, và cũng dào dạt cảm xúc nhất dành cho “mùa xuân đầu tiên” sau 75 còn bỏ ngỏ:

           
“…Giờ dặt dìu mùa xuân theo én về              
Mùa bình thường, mùa vui nay đã về.             
Mùa xuân mơ ước ấy xưa có về đâu            
Với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông
Một trưa nắng thu hôm nay mênh mông.”

            Vậy mà  - một thời ca khúc tâm huyết tuyệt vời nầy của Văn Cao đã “bị cấm phổ biến” vì sự trung thực, vì lòng bi thương hoài niệm, vì “những mùa xuân không là mùa xuân” đã được nhắc nhở như một nỗi đau chung của dân tộc (?) nhưng rồi, hôm nay, nó đã được vang lên trong mọi nhà trong mỗi dịp Xuân về; bởi  một diều giản dị: đó là tình cảm, là tiếng lòng của tất cả mọi trái tim Việt Nam yêu Quê Hương chân chính! Khúc ca là tiếng thổn thức của niềm vui và nỗi buồn…

         Chỉ một tiếng gà trưa bình thường thôi. Nhưng âm vang quê mùa chơn chất ấy đã lôi cuốn, đã lay động bao trái tim nhớ thương Quê Nhà đến vô cùng… Thật tuyệt vời, tiếng gà trưa vẫn còn vang mãi cho đến hôm nay và cả mai sau…

                                         Quê nhà, tháng 6 năm 2012

                                               MANG VIÊN LONG

**********************
Đã đăng trên mangvienlong.blogspot.com

READ MORE - TIẾNG GÀ TRƯA & NỖI NHỚ THƯƠNG HOÀI NIỆM MỘT ĐỜI - Tạp bút Mang Viên Long