Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Friday, August 28, 2009

NGUYỄN THỊ LIÊN HƯNG -CHUYỆN CŨ LÀNG XƯA


Chuyện cũ làng xưa
Nguyễn Thị Liên Hưng
Làng tôi xa nhịp sóng trùng khơi
Cũng chẳng cheo leo núi chọc trời
Nằm giữa quãng đồng suông cánh gió
Bốn mùa ngô, lúa đượm màu tươi

Làng tôi núp dưới bóng tre xanh
Như núp bên trong Vạn Lý Thành
Mỗi buổi chiều vương bao sợi khói
Dịu dàng ôm mấy nếp nhà tranh...


Đó là những câu trong một bài học thuộc lòng của những năm đầu thập niên 60. Thuở đó, chị An Lành của tôi còn là học sinh tiểu học trường làng. Mỗi buổi sáng trước khi đến trường chị phải quét sạch sân nhà. Vừa quét chị vừa học bài, khi cái sân rộng thênh thang sạch bong cũng là lúc chị thuộc bài. Tuy còn là cô bé con chưa biết chữ, nhưng mỗi sáng tôi lại thích ngồi trên thềm nhìn chị quét sân và nghe chị học bài. Thế mà tôi thuộc làu những bài học thuộc lòng chị đã đọc, những bài học ấy theo tôi suốt đời, những câu vần mà tôi không nhớ tựa và cũng không biết tên tác giả ở trên sao mà giống tả cảnh làng tôi chi lạ.
Làng Lam Thuỷ của tôi cũng những mái nhà tranh núp dưới bóng tre xanh, hoạ hoằn mới xen vào một vài nhà mái ngói đỏ. Các xóm nằm chung quanh còn chính giữa là quãng đồng suông cánh gió chấp chới cánh cò bay. Tuổi thơ của tôi ở nơi làng quê không tới mười năm nhưng sao ký ức ấy cứ mãi vướng vít suốt cuộc đời, phải chăng vì đó là nơi chôn nhau cắt rốn?
Có lần anh hỏi đường về Lam Thuỷ, tôi đã diễn tả con đường về thôn như thế nầy: Nếu đi đường sông thì cứ xuống đò máy ở bến đò chợ Tỉnh và dặn chủ đò cho ghé bến xóm Tả, rời khỏi con đò là chân đã dẫm lên mảnh đất đầu làng. Còn nếu theo đường bộ thì cứ theo con đường trước trường Nguyễn Hoàng, từ sân trường đi ra cứ tay phải mà đi thẳng về Góc Bầu sẽ có hai hướng, rẽ phải là về thôn Trí Bưu, qua cầu Quy Thiện trên sông Ging rồi đi theo con đường thẳng chia hai cánh đồng làng Quy Thiện là quê ngoại của tôi. Đi hết cánh đồng sẽ thấy dòng sông Vĩnh Định, cứ men theo con đường bên bờ sông mà đi, qua làng Trâm Lý, Văn Vận, Trà Trì, Phú Xuân rồi Trà Lộc. Đi hết làng Trà Lộc thì qua đò (nay qua cầu) sẽ thấy chợ Ngô Xá. Còn nếu đi theo đường Góc Bầu trên tỉnh lộ 8 thì qua làng Hạnh Hoa đến cầu Ba Bến là nơi sông Vĩnh Định gặp sông Ging đổ vào rồi chảy về hướng Sãi để nhập vào sông Thạch Hãn. Anh cứ hỏi cầu Ba Bến ở đâu? Thế nghĩa là anh cũng chưa bao giờ đến đó, cũng phải thôi vì anh là dân tỉnh, lại rời quê khi vừa lớn nên chưa lần đi về hướng ấy. Còn tôi tuy là dân địa phương nhưng cũng rời quê lúc còn nhỏ nên cũng không rõ lắm. Nhưng trong trí nhớ thời thơ bé về khúc sông ấy, chiếc cầu ấy mới lớn, mới dài làm sao. Tôi nhớ nơi đó còn gọi là cây số 5 thì phải, giữa cánh đồng mênh mông có một con đường rộng thẳng tắp chạy mãi về những xóm thôn xa tít tắp và tôi cũng chưa hề rẽ về hướng ấy. Tôi còn nhớ ngày xưa con đường ấy rất thơ mộng với hai hàng thông reo vi vu che mát. Hình như hương lộ ấy là đường tắt về được vùng Chợ Cạn, Triệu Phong mà không cần phải đi ngược lên chợ tỉnh. Qua khỏi cầu Ba Bến bạn cứ theo đường nhựa mà đi cho tới khi thấy chợ Ngô Xá. Thế đó, từ tỉnh có hai hướng đều men theo hai bên bờ sông Vĩnh Định mà về quê tôi, con sông ấy chia làng tôi thành đôi bờ đầy tre xanh rủ bóng xuống dòng nước trong vắt, mỗi chiều hôm lại có tiếng khua lóc cóc xua cá vào lưới của đám dân chài. Từ chợ Ngô Xá, bạn rời đường nhựa, rẽ phải qua chiếc cầu La Duy nhỏ xíu, đó là nơi con sông nhỏ Cổ Hà chảy nhập vào Vĩnh Định. Bạn đừng đi vào làng La Duy mà cứ men theo bờ sông chừng non cây số. Qua bến nước xưa, lá hoa về chiều là vào xóm Tả với con đường đất rộng, phẳng phiu có hai hàng tre ngã bóng mát rượi (đó là ngày xưa chứ chừ tre bị trốc gốc hết rồi), rẽ trái là đến nhà tôi, trong tôi vẫn in bóng ngôi nhà trong khu vườn cây bốn mùa thơm hương hoa của thời bé dại, nhà tôi có nhiều cụm mẫu đơn, bông nào bông nấy đỏ tươi to bằng cái tô lớn. Ngày hè nấu canh ám (cá lóc nấu lá sôông chua), các chị thường bày một rổ rau sống thật ngon và đẹp mắt để (ăn chung) với canh ám. Rổ rau sống nhà tôi đặc biệt lắm, này nhé, mạ và các chị xắt chuối con, trộn cùng cải con, rau thơm đủ loại, lại hái một ít hoa mẫu đơn, cánh hoa hồng và rứt vài cọng bông thọ rắc vào (bông hồng và bông thọ chỉ rắc ít thôi để làm màu cho đẹp). Thế là món rau sống với nõn chuối trắng, rau cải xanh, tô điểm thêm màu đỏ màu vàng của hoa, ăn vào đủ mùi vị: thơm thơm, ngòn ngọt, cay cay…không chỉ hấp dẫn khẩu vị mà còn bắt mắt nữa.
Đó là ký vãng của thời thơ bé năm xưa. Tôi nhớ những chiều đông lạnh giá co ro trong chăn hay đêm 30 tết bên ngọn lửa hồng canh nồi bánh tét, ba mạ thường kể cho chị em tôi nghe về nguồn gốc của làng, về Ngài khai canh khai khẩn và những truyền thuyết của vùng đất mà chúng tôi nghe hoài không chán. Rằng xưa thật là xưa, có một ông họ Nguyễn từ phương Bắc thiên cư vào đây, mà ngôi mả tổ thật lớn chính giữa cánh đồng bao la là mộ của Ngài. Người ta nói rằng Ngài đã chọn cồn đất nổi giữa bàu nước mênh mông để làm nơi yên nghỉ cuối cùng vì nơi đó là long mạch, cho con cháu hưởng phúc về sau và dòng họ Ngài bền vững đời đời. Nhưng sao chỉ có ông mà không có bà? Nghe đâu Ngài họ Nguyễn cùng sáu con trai, một con gái và hai con trai nuôi họ Võ và họ Lê đến đây lập nghiệp. Bởi thế sau nầy làng Lam Thuỷ phần lớn là họ Nguyễn, họ Võ và họ Lê rất ít. Mãi về sau mới có họ Hoàng đến trú. Đó là vài gia đình làm nghề rèn đến ngụ cư ở cạnh bờ sông, họ làm ra những vật dụng lao động để cung cấp cho dân làng như dao, rựa, liềm, vằng … và sống với nghề cha truyền con nối. Thời cận đại có một ông thầy thuốc đến lấy vợ ở La Duy rồi sinh con, người con kế nghiệp cha làm nghề bốc thuốc rất hay đã về định cư tại xóm Sông, được dân làng rất kính nể và yêu mến gọi ông là Bác Thầy và đó là họ Trần duy nhất trong làng.
Không biết qua mấy đời, căn cứ vào các người con trai của Ngài, họ Nguyễn chia ra các họ lấy tên là họ Nhất, Nhị, Tam, Tứ, Ngũ, Lục ... để gã con cho nhau. Về sau ông họ Nhị tuyệt tự nên chỉ còn năm họ Nguyễn và hai họ là Lê (Thất) và Võ (Bát). Bởi thế ngày trước có chuyện cười ra nước mắt là các bà đi làm thẻ căn cước người ta hỏi họ gì? có bà trả lời họ Tứ; lại hỏi tên gì? bảo tên Tư chẳng hạn. Thế là thẻ căn cước mang tên Tứ Thị Tư, v.v…
Đến đời nhà Nguyễn, con sông đào mang tên Vĩnh Định chảy xuyên qua làng cung cấp nguồn nước ngọt và phù sa cho ruộng đồng và dân cư ven bờ. Con sông đã chia xóm Sông thành Bắc Sông, Nam Sông cũng như xóm Tả thành Bắc Tả, Nam Tả (còn gọi là xóm Trường vì ngày xưa có trường dạy chữ nho ở đó). Những tên xóm ấy là dựa theo vị trí địa hình mà gọi như xóm Hói có con mương dẫn nước thật lớn thông thương với sông Cổ Hà; xóm Cồn ở bên cồn; xóm Làng có đình làng, v.v…Bắc Tả xóm nhà tôi là tên gọi theo thói quen chứ trong sách ghi lại có tên rất hay kia, ngày nhỏ mỗi lần đi xem cúng xóm tôi nghe người ta đọc Vĩnh Hoà xóm, Lam Thủy thôn, Hải Vĩnh xã…gì gì đó. Còn các xóm khác thì trong sổ sách ghi tên là xóm Vĩnh Định, Vĩnh An, Thượng Lộc, Thượng An, Thượng Hoà, v.v...
Tương truyền khi đến lập nghiệp, đất đai màu mỡ ven sông Ngài khai canh khai khẩn chia đất cho các con trai sống quanh cánh đồng là các xóm Tả, xóm Hói, xóm Cồn, xóm Làng, xóm Sông. Còn người con nuôi họ Võ được chia vùng đất gần rú nên gọi là xóm Rú. Xóm Rú có đất pha cát trồng khoai rất ngon và cánh đồng phía trước cũng không kém phần màu mỡ. Tôi lại nghe kể rằng cô con gái khi gã chồng, ông tổ họ Nguyễn đã cho đất làm của hồi môn bằng cách bảo cô vác một cục đá lớn đi từ đầu cánh đồng, lúc nào hết đi nổi bỏ cục đá xuống đâu thì được hưởng đất hồi môn đến đó. Và vùng đất hồi môn của người con gái đó là làng La Duy có cánh đồng trải dài giáp ranh xóm Bắc Tả làng Lam Thuỷ. Ngày nhỏ tôi thường theo lũ bạn rong chơi khắp xóm, đến tận cột mốc ranh giới của hai làng và thấy cục đá mà người con gái ngày xưa đã vác đến đó thì thả xuống. Ôi! Cục đá khá lớn, cắm chặt xuống đất giữa cây cỏ um tùm. Không biết cô gái ngày xưa có ý chí và sức mạnh cở nào mà vác nổi để đi qua đoạn đường cả cây số vậy nhỉ? Và qua bao biến thiên thời cuộc, cục đá làm ranh giới giữa hai làng đến nay vẫn còn đấy.
Cũng trong những ngày đông giá rét hay đêm hè trăng thanh gió mát của thời thơ bé ấy, tôi thường nghe ba mạ kể những giai thoại đầy thú vị của quê mình, nghe hoài không chán. Ấn tượng nhất là câu chuyện ông thầy pháp cao tay ấn. Chuyện rằng ngày xửa ngày xưa ấy làng tôi có một vị pháp sư rất giỏi phép thuật. Ông biết luyện âm binh để giúp việc cho mình. Ruộng nhà ông không cần thợ cấy, thợ gặt mà mạ vẫn cấy xong, lúa vẫn về nhà. Người ta nói rằng mùa hạn hán, người người lo kéo nhau ra đồng tát nước vào ruộng để cứu lúa, còn ruộng nhà ông chẳng hề tát mà khi nào nước cũng đầy ăm ắp. Nghi hoặc nên chờ lúc nửa đêm, trai tráng trong làng ra đồng xem thử, đứng xa xa thì thấy có hai người đang tát nước sàn sạt vào ruộng, nhưng khi đến gần chả thấy gì cả. Một thời gian sau, bỗng dưng việc đồng áng nhà ông cũng phải mướn người giúp như bao nhà khác. Hỏi ra mới biết, thì ra ông có phép thuật luyện đậu thành câu môi (còn gọi là con nộm – người ma) để giúp việc, ông cho những hạt đậu vào chén dĩa, úp kín trong căn phòng riêng, làm phép đủ 3 tháng 10 ngày thì đậu thành câu môi. Ban đêm khi những sinh vật đã ngon giấc, câu môi sẽ làm những việc do ông sai phái và trở khi trước khi người ta thức dậy. Câu môi chính là âm binh, chúng làm việc lặng lẽ theo lệnh chủ nhân và khi có người tới gần sẽ biến mất. Ông luyện âm binh trong một căn phòng đóng kín và cấm vợ con bén mảng đến. Một lần, ông có việc phải vắng nhà mấy ngày, vợ ông tò mò mở cửa phòng thì chỉ thấy mấy cái chén úp trên bàn chứ chẳng có gì, thấy phòng đầy nhện giăng và bụi bặm, bà bèn lấy chổi vào quét dọn. Vô tình quơ phải bàn làm những chiếc chén nghiêng ra, thế là những hạt đậu ông luyện chưa đủ thời gian thành câu môi đổ văng tứ tung. Những con câu môi chưa đủ ngày tháng nên thành những hình nhân nhỏ xíu rất dễ sợ, cái thiếu tay, cái thiếu chân, cái thiếu đầu. Chúng quờ quạng hoặc bò khắp phòng làm bà rú lên hãi hùng và chết ngất. Khi ông về, biết sự thể xảy ra bèn cất tiếng than ta không còn được hưởng cái phước nầy nữa. Nghe đâu từ đó ông thôi luyện âm binh để giúp việc nhà.
Tôi lại nghe kể rằng một chiều nọ ông cần qua sông nhưng do nước lụt nên người đưa đò ngang nghỉ sớm. Bên kia bờ có chiếc ghe nhỏ đang đậu và chủ nhân của chiếc ghe đang cất rớ (dỡ vó). Ông bèn xin người cất rớ cho ông qua sông có việc cần nhưng người nầy từ chối. Thế là trước sự kinh ngạc của người đánh cá, ông ngả nón bỏ xuống nước rồi ngồi vào nón đưa tay khoát nước để qua sông giữa dòng nước đục ngầu đang chảy băng băng ra biển mà không hề bị ướt áo. Khi ông đi khuất thì người đánh cá bỗng dưng không dỡ rớ lên được. Nghĩ chắc là trúng quả nên ông ta liền chạy vào xóm rủ người đến phụ sức. Nhưng khi cả năm, bảy lực điền cùng xúm vào mà cái rớ cá vẫn trơ trơ. Thấy chuyện lạ, một người bèn hỏi ông nãy giờ có gặp ai không, có chuyện gì không? Ngư phủ bèn kể lại câu chuyện kỳ lạ nọ. Người biết chuyện à lên rồi chỉ đường và bảo người đánh cá đến nhà ông thầy pháp tạ tội mau đi và dĩ nhiên khi ngư phủ trở lại thì chiếc rớ nhẹ tênh.
Rồi có một buổi chiều tà ông thầy pháp đi qua cánh đồng có một nhóm phụ nữ đang cấy lúa. Nhóm thợ cấy nầy vốn nỗi tiếng là đanh đá. Thấy ông đi một mình, các bà bèn lên tiếng chọc ghẹo. Ông không giận hay mắc cỡ như những người đàn ông độc hành khác mà lên tiếng hỏi vui Các bà có cấy xong lúa kịp trước khi trời tối không mà còn đùa thế? Mấy bà bèn trề môi Ối dào, còn một mảnh ruộng nhỏ xíu, mặt trời còn cao thế kia, chị em chúng tôi đông như thế nầy vừa cấy vừa chơi cũng xong trước khi mặt trời lặn chứ nói chi là tối. Ông thầy pháp cười bảo Lo mà cấy đi chứ ham ghẹo người khác thế coi chừng đến tối cũng chưa xong đó. Một người đàn bà khác cong cớn mắng thằng cha nầy có khùng khùng không mà coi thường tay nghề của các bà vậy? Thầy pháp không trả lời, vừa cười kha kha vừa bước đi. Khi ông ta khuất bóng, bỗng dưng cá đâu chạy lung tung trong mảnh ruộng chưa cấy, thế là các bà bỏ mạ chạy theo bắt cá, bắt con nào trượt con nấy, thế là thi nhau chạy theo cá. Các bà mê bắt cá đến nổi dẫm đạp lên cả những luống mạ vừa cấy. Đến khi trời sẩm tối, giật mình nhìn lại thì chao ơi! Mạ non nát bét tơi bời mà cá chẳng ai bắt được con nào. Sau đó kể lại chuyện mới biết mình đã đắc tội với lão phù thuỷ danh tiếng của làng Lam Thuỷ nên bị phạt, các bà chỉ biết thở dài và từ đó cũng bỏ bớt tánh kiêu căng, đanh đá.
Những chuyện tương tự như thế thì vô số, kể hoài không hết nhưng Mộ Trấn là câu chuyện ấn tượng nhất, dấu tích xưa dù qua bao chiến tranh bom đạn mà đến nay vẫn còn sờ sờ bên bờ sông Cổ Hà.
Chuyện kể rằng làng Phương Lang lập chợ bên kia sông Cổ Hà, đối diện Lam Thuỷ. Thế là từ đó Lam Thuỷ cứ bị hoả hoạn mãi. Thầy pháp bấm độn và bảo việc cháy nhà nầy là do bên kia lập chợ ám hướng của làng. Các cụ già hỏi thế thì phải làm sao, vì chợ của làng người ta, mình đâu có quyền dẹp? Ông thầy pháp bảo hãy đẽo tượng một con chó đá ngồi dòm mặt qua chợ rồi ông làm phép yếm là xong. Đúng như thế, khi có con chó đá, Lam Thuỷ không bị cháy nhà nữa nhưng chợ Phương Lang bỗng dưng thưa thớt, gần như muốn tàn. Mà người xưa có câu Chợ tàn thì làng mạt. Sợ làng mạt nên người Phương Lang liền đi cho người bôn ba đi các nơi tìm thầy hay để hỏi nguyên do. Không biết các ông thầy đó bói như thế nào mà sau đó một thời gian, bỗng dưng bên kia bờ sông Cổ Hà xuất hiện một tượng đá hình con cọp nhe nanh múa vuốt đối diện con chó đá của bên nầy bờ. Thế là chợ Phương Lang lại đông còn bên Lam Thuỷ lại cháy nhà và gặp đủ chuyện tai ương. Hiểu rằng cọp đá đã nuốt chững chó đá nên trai tráng Lam Thuỷ rình lúc đêm tối lẻn qua sông đập phá tượng cọp đá. Chuyện lỡ vỡ, trai tráng Phương Lang lại kéo qua đập cho đá, thế là xảy ra xô xát giữa hai làng. Thấy thế, ông thầy pháp liền bảo bên Lam Thuỷ đập bỏ tượng chó đá để tránh hiềm khích rồi ông sẽ có cách. Mọi người tin ông và chờ đợi. Rồi một hôm ông khăn gói rời nhà mà chẳng nói đi đâu. Cho đến một sáng ngủ dậy, người ta bỗng thấy có tảng đá vuông vức dựng bên nầy sông Cổ Hà chỗ đặt con chó đá dạo trước cùng lúc thầy pháp trở về nhà. Mọi người ngạc nhiên chạy lại xem tảng đá nhưng chả ai dám tới gần vì thấy trên tảng đá có hai con rắn rất lớn, một con dài một con ngắn ngủn giương cổ hú gió vi vu như là giữ tảng đá vậy. Vì sợ hai con rắn nên chả ai dám bén mảng đến phá tảng đá. Từ đó chợ Phương Lang vẫn đông mà phía Lam Thuỷ cũng bình an vô sự. Nghe đâu những người đi rừng hay lên phía thượng nguồn sông Thạch Hãn bảo trên đó bỗng dưng mất đi một tảng đá giống y tảng đá tự dưng mọc lên bên sông Cổ Hà nầy. Người ta giải thích là ông thầy pháp cao tay ấn đã dùng phép sai tảng đá từ trên núi xanh về đây để chắn hướng chợ Phương Lang cho làng Lam Thuỷ nhưng sợ lại bị kẻ xấu phá bĩnh, nên đã sai luôn hai con rắn thần về giữ đá mà dân làng kính nể thường gọi tránh đi là Ông Dài Ông Cụt. Từ đó người ta gọi tảng đá là Mộ Trấn (trấn áp). Qua bao năm tháng chiến tranh, ngày nay Ông Dài Ông Cụt bỏ đi đâu mất, không còn nữa nhưng Mộ Trấn vẫn còn sừng sững bên sông Cổ Hà.
Có một điều người ta tin những giai thoại là có thật vì dòng họ ông thầy pháp đó qua bao đời vẫn có người nối nghiệp cúng bái, trừ tà yếm quỷ nổi tiếng cho đến thời chiến tranh ly loạn, dân làng bỏ xứ mà đi nên không biết bây giờ con cháu của dòng họ ông còn giữ được nghề cũ không?
Nghe tôi kể chuyện làng quê của mình anh cũng góp vào, anh bảo dù là dân ở tỉnh nhưng anh rất thích về quê, tuy đường về quê anh không cùng hướng quê tôi nhưng cảnh trí ven đường của làng quê Quảng Trị ở đâu cũng gần như nhau, cũng dòng sông, cũng cánh đồng và anh cũng rất thích hít thở mùi hương đồng nội. Mỗi lần về quê, anh được bà con cưng lắm mà thích nhất là theo lũ trẻ trong xóm ra đồng cưỡi trâu, bắt dế. Có lần thấy con bò mới đẻ chú bê non, anh tò mò đến gần xem bị bò mẹ tưởng anh đến bắt con của nó nên rượt anh chạy trối chết. Tôi nghe anh kể mà cười nôn ruột, anh đúng là con trai, còn tôi dù sinh ra ở quê nhưng sợ trâu bò lắm, tôi không bao giờ dám đến gần chúng dù đôi khi thấy chúng nằm bên đường lim dim đôi mắt một cách hiền lành thong thả nhai lại.
Hồi ở quê tôi rất thích nhìn dòng sông, nhìn bóng núi mờ xa xa in lên nền trời mỗi khi chiều về. Còn mỗi lần ra đồng là tôi quên cả giờ về ăn cơm nên thường bị ăn đòn, cả đến bây giờ cũng thế, mỗi lần có dịp đi qua cánh đồng lúa là tôi hít lấy hít để mùi cỏ dại, mùi mạ non ngai ngái, mùi lúa chín vàng ươm và ngay cả mùi bùn oi oi nồng nồng trên ruộng ướt.
Tôi thích ra đồng để nhìn đàn cò trắng rập rờn trên ruộng lúa, thích nhìn những chiếc vằng (lưỡi hái) ăn lúa sồn sột trong tay đám thợ gặt và thích mót lúa rơi. Tôi cũng thích đi bắt cá nhưng sợ đĩa và rắn nước lắm, những đêm trăng ngày mùa bọn trẻ con như tôi đều thích thức đêm xem trâu đạp lúa và ăn ké bữa khuya của đám thợ xảy lúa. Khi trâu đạp xong một giã lúa, nhóm đàn ông dùng mỏ xảy hất tung những cọng rơm vàng nhẹ về một phía để những hạt lúa nặng rơi xuống gom lại một đống. Thế là đám trẻ con chui vào nằm trong đống rơm còn thơm mùi lúa tươi để rồi sau đó da thịt ngứa ơi là ngứa. Tôi theo bọn trẻ trong xóm chơi những trò như búng dây thun, ô làng, ù mọi, trốn tìm, … đến trò chơi đám cưới, gia đình vợ chồng con cái mà sinh hoạt là dựa theo nếp sống của cha mẹ lúc đó, v.v…nhưng tôi không biết bắn bi đâu nhé, con gái ai lại chơi bắn bi mà tôi thường chơi bán hàng hay chơi lò cò gọi là cạnh tàu bay để xây nhà chiếm lối đi trên những vạch ngang dọc như chiếc máy bay. Còn đánh căng là một trò chơi rất thú vị dành cho con trai, mỗi đứa thường lận lưng một bộ, đồ nghề càng cũ thì càng láng bóng và nói lên đó là tay chơi thiện xạ, chúng cưng đồ nghề lắm, tôi thường thèm thuồng nhìn chúng cốc mấy cái rồi đánh mạnh cho căng văng ra xa… rồi quày tay đo một cách điệu nghệ. Thế mà chị AL của tôi cũng lén mạ chặt căng để làm một bộ láng o rất đẹp, chờ khi nào mạ đi vắng mới lôi ra chơi một mình, cũng cốc, cũng đo thành thạo và say sưa không kém bọn con trai.
Trong vườn nhà, ba tôi trồng đủ thứ trái cây, thế mà tôi vẫn thích theo lũ bạn trong xóm rong rong qua những lùm tre kiếm trái dại. Ngoài việc nếm thử trái sầu đâu, thưởng thức cái vị vừa ngọt vừa thanh của trái dưới chín vàng ươm ra tôi còn ăn bất cứ trái cây nào hái được như chuông chuổng, cơm nguội, dánh dù, khe lù lù, mắm nêm mà trong sách thuốc gọi là chùm bao hay lạc tiên gì đó, v.v… Cứ hái được là cho vào miệng mà không cần rửa ráy, trái nào ngon thì nuốt mà dở thì nhổ ra, ăn uống mất vệ sinh thế mà sao không đau bụng nhỉ? Còn nếu lên rú vào mùa hè thì tha hồ mà ăn sim, ăn móc đến đen miệng. Bên mộ bà nội tôi còn có những cây cam rượu trĩu quả vàng ươm. Mỗi lần đi thăm mộ, ba tôi đều hái về cả nón bảo là cam rượu mệ gởi về cho cháu. Trái cam rượu chín vàng mọng nước, ăn vừa ngọt vừa có mùi rượu mà ai tham ăn nhiều cũng say ngây ngây như uống rượu vậy.
Mùa hè học trò nông thôn thường gắn với ruộng vườn, hết mót lúa lại phụ mẹ hái ớt chín, cạo vỏ sắn, v.v…Thế nhưng vẫn có những lớp dạy hè rôm rả. Thầy dạy hè thường là những học sinh trung học của trường Nguyễn Hoàng, vào giờ học thì nghiêm khắc một phép, nếu đứa nào phạm lỗi là thầy sẵn sàng rút roi mây bắt nằm hai tay ôm đầu đánh trót vào mông, nhưng đến giờ chơi thì thầy trò gì cũng căng, cũng ù mọi, cũng alơmanh (trốn tìm) say sưa. Thuở đó trên các doi đất cao ven sông thường có một loài cây lúp xúp gọi là cây dẻ, mỗi độ hè sang, những chùm hoa dẻ chín vàng được học trò hái ép vào vở thơm lừng đến tận năm sau. Và trong tôi, đó là mùi hoa học trò nơi chôn nhau cắt rốn còn phảng phất đến tận bây giờ.
Chuyện quê xưa không bao giờ nói hết. Ai cũng có một vùng quê, ai cũng yêu nơi mình cất tiếng khóc chào đời, nơi còn mồ mả ông cha trăm năm đi về một cõi. Hãy về thăm quê bạn ơi! Quê hương nếu ai không nhớ…
Và tôi, khi ghi lại đoản ký ức nầy tôi vẫn nghĩ:
Làng tôi đối với vạn muôn người
Chỉ một miền quê nhỏ bé thôi
Tôi đã trót yêu từ tấm bé
Thuở còn say giấc ngủ trong nôi.
Xin mượn đoạn kết của bài học thuộc lòng năm xưa để nói lên nỗi lòng mình vậy.
Biên Hoà (một ngày hè 2008)
READ MORE - NGUYỄN THỊ LIÊN HƯNG -CHUYỆN CŨ LÀNG XƯA

Thursday, August 27, 2009

ĐỖ TƯ NHƠN


NGƯỜI VỀ TRÊN SÂN TRƯỜNG XƯA


Ai về đây mà rộn ràng phố thị

Mấy mươi năm tưởng vọng một mái trường
Thời áo trắng quần xanh hồn cỏ dại
Cánh phượng hồng, trang lưu bút rưng rưng.

Ai về đây mà sân trường rộn rã
Tiếng reo cười và nhịp đập tim vui
Chất chứa lắm những mạch nguồn khôn tả
Như triều dang ngập lụt cả lòng tôi.

Ai về đây chiều qua hay sáng sớm
Lắng nghe từng âm hưởng của mùa xưa
Chân chậm bước cùng đến trường trong nắng
Để tình cờ sống với chuổi ngày thơ.

Ai về đây mắt nhìn nhau tìm lại
Cõi thiên đường đàn chim nhỏ líu lo
Tóc dù bạc nhưng tình còn đọng mãi
Mái trường xưa ấp ủ đến bao giờ.

Ai về đây cuối hạ ngày hội ngộ
Phượng không còn, dư ảnh vẫn thiết tha
Gìn giữ chút ngọc ngà qua dâu bể
Tình Nguyễn Hoàng nồng ấm chẳng phôi pha.


Quảng Trị,04/08/2007



READ MORE - ĐỖ TƯ NHƠN

Wednesday, August 26, 2009

ĐỖ TƯ NGHĨA


ĐỖ TƯ NGHĨA

MỘT ĐÔI KHI TÔI MUỐN



Một đôi khi tôi muốn
tìm giữa cuộc đời
một tâm hồn bạn hữu
để cùng cười khi vui
để cùng khóc khi buồn
nhưng dường như khó quá

Một đôi khi tôi muốn
khoét tim tôi mở ra ngàn cánh cửa
cho cuộc đời vào ra
nhưng tại sao
cửa hồn tôi vẫn đóng
lỗi tại tôi
hay tại cuộc đời?

Một đôi khi tôi muốn
ngủ thật yên những đêm
vì cuộc đời là con dao nhọn
vẫn cắt hồn tôi
thành những miếng ngon lành

Một đôi khi tôi muốn
hồn tôi như nắm tro
để tôi vãi tung ra
bốn phương trời
theo gió...

Một đôi khi tôi muốn
em đến thăm
góc tối của hồn tôi
sâu như mấy tầng địa ngục
một lần thôi
dù chỉ một lần.

Đà Lạt, 1983
READ MORE - ĐỖ TƯ NGHĨA

Thursday, August 20, 2009

DUY KHÁNH

Duy Khánh và gia đình ở Philippins

Duy Khánh (1936 - 2003), tên thật Nguyễn Văn Diệp, còn có nghệ danh Tăng Hồng, Hoàng Thanh. Ông nổi danh từ thập niên 1960, với những bài hát mang âm hưởng dân ca và "dân ca mới" của Phạm Duy, nhạc quê hương. Ông được xem như là một trong bốn giọng nam nổi tiếng nhất của nhạc vàng ("tứ trụ nhạc vàng"), ba người còn lại là: Nhật Trường, Hùng Cường, Chế Linh . Ông còn được biết đến như một nhạc sĩ tài năng với hơn 30 ca khúc, nổi tiếng phải kể đến Thương về miền Trung, Lối về đất mẹ, Ai ra xứ Huế, Xin anh giữ trọn tình quê ...

Tiểu sử
* Duy Khánh sinh năm 1936 tại Quảng Trị, là con áp út trong một gia đình vọng tộc gốc làng An Cự, Triệu Phong, thuộc dòng dõi Quận công Nguyễn Văn Tường, Phụ chánh đại thần triều Nguyễn.
* Năm 1964 ông thành hôn với Âu Phùng, một phụ nữ gốc Hoa, sinh ra 2 người con. Về sau hai người đã ly dị.
* Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, ông ở lại Việt Nam.
* Giữa thập niên 1980 ông cưới bà Thúy Hoa rồi sống tại Vũng Tàu.
* Đến 1988, ông được bảo lãnh sang Hoa Kỳ, tại đây ông tiếp tục ca hát và sáng tác.
* Ông mất vào 12 giờ trưa ngày 12 tháng 2 năm 2003 tại bệnh viện Fountain Valley, Quận Cam, California, thọ 65 tuổi.

Sự nghiệp

Năm 1952, Duy Khánh đọat giải nhất cuộc thi tuyển lựa ca sĩ của đài Pháp Á tại Huế với bài hát Trăng thanh bình. Sau đó ông chuyển vào Sài Gòn để theo đuổi nghề ca hát.

Vào Sài Gòn, ông bắt đầu ghi âm đĩa nhựa và đi diễn khắp nơi, dần nổi tiếng với tên Hoàng Thanh. Ông trở thành một trong ba giọng nam được yêu thích nhất, cùng với Duy Trác, Anh Ngọc. Thời kỳ này tên tuổi của ông gắn liền với những bài có âm hưởng dân ca và "dân ca mới" của Phạm Duy: Vợ chồng quê, Ngày trở về, Nhớ người thương binh, Tình nghèo, Quê nghèo, Về miền trung... rồi đổi nghệ danh là Duy Khánh. Chữ "Duy" trong Phạm Duy, còn "Khánh" là tên một người bạn thân của ông.

Năm 1965, ông cùng với nữ danh ca Thái Thanh thu thanh bản trường ca Con đường cái quan của Phạm Duy. Sau đó cùng hai người hát trường ca Mẹ Việt Nam. Cho đến nay, hai bản trường ca này vẫn gắn liền với giọng hát Thái Thanh, Duy Khánh.

Ông bắt đầu viết nhạc từ năm 1959, nhạc ông thường nói về tình yêu quê hương, mang hơi dân ca xứ Huế và được đón nhận nồng nhiệt, ngay từ hai sáng tác đầu tay: Ai ra xứ huế, Thương về miền trung.

Sau 30 tháng 4 năm 1975, ông nghỉ hát một thời gian dài, sau đó thành lập đoàn nhạc Quê Hương, quy tụ các nhạc sĩ Châu Kỳ, Nhật Ngân, các ca sĩ Ngọc Minh, Nhã Phương, Bảo Yến... Sau khi sang Mỹ vào năm 1988, ông hát độc quyền cho trung tâm Làng Văn, sau đó tách ra, thành lập trung tâm Trường Sơn tiếp tục ca hát và dạy nhạc cho đến cuối đời.

Sáng tác
* Ai ra xứ Huế
* Thương về miền Trung
* Xin anh giữ trọn tình quê
* Lối về đất mẹ
* Huế đẹp Huế thơ
* Tình ca quê hương
* Biết trả lời sao
* Bao giờ em quên, v..v..

Nguồn: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

NGHE CA KHÚC


Ai ra xứ Huế

Trường cũ tình xưa

Bao giờ em quên

Thương về miền Trung

Anh về một chiều mưa

Đêm bơ vơ

Huế đẹp Huế thơ

Ngày xưa lên năm lên ba

Nén hương yêu
READ MORE - DUY KHÁNH

PHAN PHỤNG THẠCH



Con đường áo lụa

PHAN PHỤNG THẠCH

Ta trở lại con đường xưa áo lụa
Hàng cây cao đứng đợi các em về
Các em không về - Cây buồn lá úa
Ta cũng buồn đi giữa nắng lê thê.

Từ bờ bên ni nhìn qua Thành-Nội
Phượng đã tàn rụng xuống buổi đầu thu
Làm sao quên những ngày qua bóng tối
Lửa kinh thành ngùn-ngụt khói âm u.

Những chuyến đò ngang qua về Thừa-Phủ
Còn chở tình bên nớ tới bên tê ?
Ta mỗi bước càng thêm dài nỗi nhớ
Những chiều mưa sớm nắng các em về.

Ta trở lại giữa sân trường Đồng-Khánh
Lòng hoang vu như cỏ dại quanh tường
Ơi những nấm mồ hương tàn vắng lạnh
Có lời gì muốn nhắn với quê hương ?

ĐỌC THÊM
Lưu bút mùa hạ
READ MORE - PHAN PHỤNG THẠCH

HOÀNG THI THƠ






Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ sinh ngày 1-7 năm 1928 (Mậu Thìn) tại làng Bích Khê, Phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, miền Trung Việt Nam - bắt đầu hoạt động cho văn học nghệ thuật từ năm 1945, khi còn học bậc Trung Học tại Huế rồi Hà Tĩnh.

Sau khi học xong cấp Tú Tài, tháng 10-1950, Hoàng Thi Thơ vào Đại học tại Hậu Hiền, Thanh Hóa.
Năm 1951, Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ vào Sài Gòn dạy Anh ngữ và đi theo luôn con đường viết nhạc, hoạt động văn nghệ. Năm 1957 ông bắt đầu tổ chức những kỳ Đại nhạc hội lớn tại rạp Thống Nhất Sài Gòn; năm 1960 thành lập Đoàn Văn Nghệ Việt Nam và lưu diễn qua nhiều nước Á Châu. Từ 1967 ông là Giám đốc tổ chức những chương trình ca vũ nhạc kịch, đặc biệt tại nhà hàng Maxim's, Sài Gòn... Ông cũng từng lưu diễn tại nhiều thành phố trên thế giới: Vạn Tượng, Hồng Kông, Ðài Bắc, Tokyo, Bangkok, Singapore, Sénégal, Paris, London... và nhiều nơi ở Hoa Kỳ!

Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ lập gia đình với nữ ca nhạc sĩ Thúy Nga vào tháng 9-1957 và có 4 người con - 3 trai, gái - mà người con trưởng là Hoàng Thi Thi, vừa là nhạc sĩ vừa là kỹ sư. Ngoài ra ông còn một dưỡng tử là Hoàng Thi Thao, người cháu gọi ông bằng chú và cũng là người theo sát chân ông trong nhiều năm hoạt động văn nghệ.

Ông có trên 500 ca khúc từ tình cảm đến nhạc quê hương, dân ca đến nhạc thời trang, đoản khúc đến trường ca, nhạc cảnh đến nhạc kịch. Nhiều bài hát của Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ đã rất quen thuộc với người Việt Nam từ những năm 1950 cho đến sau năm 1975, nhất là những bản nhạc có tính chất dân gian, mộc mạc có âm hưởng quê hương đã đi vào lòng dân mà lại lãng mạn như "Rước tình về với quê hương", "Rong chơi cuối trời quên lãng", "Đường xưa lối cũ", "Tà áo cưới", "Trăng rung xuống cầu", Gạo trắng trăng thanh", "Đám cưới trên đường quê", "Duyên Quê", "Tình ta với mình" ...

Ngoài ra Hoàng Thi Thơ cũng có những bản nhạc kể lại những mối tình thường là đau khổ của những người con gái "hồng nhạc bạc mệnh", "Chuyện tình cô lái đò Bến Hạ", "Chuyện tình La Lan", "Chuyện tình người trinh nữ tên Thi", "Nỗi buồn Châu Pha"... Sơn Ca và Thanh Lan ưa hát những bản nhạc này lắm, cô ca sĩ nào cũng đầm đìa nước mắt, làm khán giả cũng thương dùm phận gái trong thời loạn, những người con gái có trái tim lãng mạn, nhạy cảm (người trinh nữ tên Thi), "Ai buồn hơn ai"...

Qua những hoạt cảnh quê hương, một thời miền Nam VN được sống lại những mối tình mộc mạc, những hình ảnh êm dịu của làng mạc, lũy tre, đêm trăng có tiếng chày giã gạo, có đám trai gái hò qua, đáp lại phá phách nhau, những hình ảnh bị lãng quên vì chiến tranh, với giọng hát của cặp song ca Sơn Ca, Bùi Thiện. Sơn Ca thật duyên dáng, giọng hát lanh lãnh và Bùi Thiện, một giọng miền Bắc, điêu luyện đã làm say mê nhiều tầng lớp khán giả khác nhau.

Nói đến vũ, tên tuổi của Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ cũng đã chói sáng cùng với vũ sư Trinh Toàn và vũ sư Lưu Hồng trong công trình nghiên cứu và sáng tạo vũ dân tộc, dựng lên các điệu dân vũ hấp dẫn và sống động. Những điệu vũ như: Vũ múa trống, Vũ lên đồng, Vũ múa nón, Múa xòe, Múa Koho...

Trong lãnh vực điện ảnh, Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ là đạo diễn sáng tác vỡ nhạc kịch đầu tiên năm 1963, mang tên "Từ Thức lạc lối bích đào," năm 1964, vỡ nhạc kịch thứ nhì "Dương Quí Phi", năm 1966 vỡ "Cô gái điên," năm 1968 vỡ "Ả Đào say"...

Bị mổ tim mấy năm trước nên sức khoẻ từ dạo đó cũng không được khá, nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ đã qua đời một cách thanh bình, trong khi chờ vợ ông ta đang làm một món cá mà ông thích. Ông mất sáng ngày chủ nhật ngày 23 tháng 9 năm 2001 tại nhà riêng ở Glendale (Nam California), hưởng thọ 74 tuổi.

Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ được đưa đến nơi an nghỉ cuối cùng vào thứ Ba sau đó, 2-10-2001

NGHE CA KHÚCAi buồn hơn ai, Vô Thường

Đường xưa lối cũ

Rong chơi cuối trời quên lãng

Rước tình về với quê hương


Chuyện tình cô lái đò bến Hạ

Video Ca sĩ Họa My thăm phầm mộ của nhạc sĩ HTT, Cali, 2007
READ MORE - HOÀNG THI THƠ

Wednesday, August 19, 2009

TRẦN HOÀN

NHẠC SĨ TRẦN HOÀN
Nhạc sĩ Trần Hoàn (1928-2003) là tác giả của nhiều ca khúc nổi tiếng như Sơn nữ ca, Lời người ra đi, Lời Bác dặn trước lúc đi xa, Kể chuyện người cộng sản, Giữa Mạc Tư Khoa nghe câu hò ví dặm... Ông còn từng là Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin Việt Nam.

Trần Hoàn tên thật là Nguyễn Tăng Hích, sinh năm 1928, quê quán Hải Lăng, Quảng Trị. Bố của ông là người rất yêu thích âm nhạc và sành sỏi về ca Huế, hát bội, nhạc Tây. Trần Hoàn tự học nhạc và bắt đầu sáng tác từ năm 16, 17 tuổi.

Năm 1935 Trần Hoàn theo học tại Quốc học Huế. Ông bắt đầu nối tiếng với ca khúc Sơn nữ ca viết năm 20 tuổi khi đang ở chiến khu Quảng Bình. Trần Hoàn tham gia kháng chiến, đến ngày hoà bình lập lại, ông về làm giám đốc Sở Văn hóa Hải Phòng. Năm 1964 ông trở lại chiến trường Bình Trị Thiên với bút danh Hồ Thuận An, thời gian này ông sáng tác những bài hát như Tiếng hát trên Gio Cam giải phóng, Lời ru trên nương...

Sau 1975, Trần Hoàn là trưởng Ty Thông tin Bình Trị Thiên. Sau đó ông giữ các chức vụ trưởng ban Tuyên huấn Thành ủy Hà Nội, bộ trưởng Bộ Thông tin, bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông Tin cho đến ngày nghỉ hưu rồi Phó ban Văn hóa - Tư tưởng Trung ương.

Những sáng tác của Trần Hoàn khá phong phú, từ những ca khúc thời kỳ đầu mang tính trữ tình như Sơn nữ ca, Lời người ra đi... cho tới những bài hát Lời ru trên nương, Tình ca mùa xuân, Nắng tháng Ba, Một mùa xuân nho nhỏ... và mang đậm chất dân ca như Giữa Mạc Tư Khoa nghe câu hò ví dặm, Lời Bác dặn trước lúc đi xa...


Ông mất ngày 23 tháng 11 năm 2003.

Tác phẩm

* Bà Ba
* Chàng ra đi
* Chào mùa xuân
* Con trâu kháng chiến
* Đêm Hồ Gươm
* Giữa Mạc Tư Khoa nghe câu hò ví dặm
* Gửi mẹ yêu thương
* Kể chuyện người cộng sản
* Khúc hát người Hà Nội
* Lời Bác dặn trước lúc đi xa



* Lời người ra đi
* Lời ru trên nương
* Một mùa xuân nho nhỏ
* Mùa xuân nho nhỏ
* Nắng tháng Ba
* Quảng Trị yêu thương
* Sơn nữ ca
* Chiều trên Gio Cam giải phóng
* Tình ca mùa xuân
* Xin mời anh chị về thăm Hải Phòng


NGHE CA KHÚCLời người ra đi

Sơn nữ ca

Lời ru trên nương

Một mùa xuân nho nhỏ

Quảng Trị yêu thương"

Nắng tháng ba

Tình ca mùa xuân

Chiều trên Gio Cam giải phóng
READ MORE - TRẦN HOÀN

Friday, August 14, 2009

HOÀNG CÔNG DANH - BẦY ÉN MÙA XUÂN



BẦY ÉN MÙA XUÂN


Ai đã từng sinh ra và lớn lên ở một làng quê hẳn sẽ không thể quên cái trò bẫy én vào mỗi độ xuân về. Ngày xưa tôi là một đứa bé mê chim chóc, mê đến nỗi bây chừ thèm mình là con chim én ấy, để được bay về cánh đồng quê hương và tình nguyện mắc vào một cái bẫy ai đó đã đặt chờ đợi.

Con nít làng tôi lớn lên như thế! Lớn lên từ cánh đồng mỗi mùa ban tặng một thứ sản vật, có cái cầm được có cái không, nhưng tất cả đều đáng yêu đáng nhớ. Mùa hạ cho thóc trảy vỏ bóc ra gạo trắng. Mùa thu toóc rạ đốt lên khói đồng xoáy vào mắt, cay! Mùa đông có lũ cá lội ngược nước chảy vào những chiếc nơm đặt ở cống. Còn mùa xuân thung thăng bầy én về, thung thăng lũ trẻ đi bẫy én... Dường như mùa xuân, cánh đồng dành riêng cho lũ con nít thì phải?


Làng tôi là khuông đất nhỏ, không sông không biển, được bao quanh bởi ba làng khác; chính vì thế mà ngày nhỏ tôi lọt giữa những ngọn lúa bờ đê và không định vị được phương hướng. Đến một hôm mặt trời chỉ cho tôi hướng đông hướng tây ứng với chân trời nó mọc và lặn. Mùa xuân năm ấy bầy chim én bay về giúp tôi biết được hướng bắc hướng nam theo chiều bay của chúng. Tôi cảm ơn loài chim mùa xuân này, én đã dạy cho tôi bài học về sự định hướng quê nhà, để đi xa tôi không đánh mất mình giữa bốn chiều quỹ đạo mông lung. Cũng nhờ cái hướng đàn chim đó mà tôi nhận ra làng mình như một cái bẫy dang tay đón lấy mùa xuân, ôm chặt những đứa con tha hương trở về, như tôi hôm nay.

Nhà tôi hướng ngõ về phương nam và quay lưng về phương bắc. Vào một ngày xuân thuở trước, tôi nghe sau lưng nhà những tiếng sột soạt vờn gió, chạy lui xem thì thấy mấy cánh én nhỏ về đậu trên bờ ruộng. Rồi chúng bay vút theo hướng nam sà xuống cánh đồng trước mặt nhà. Mấy tấm ruộng ngày giêng đang xanh thắm hệt một tấm áo choàng, bỗng nhiên được đơm thêm những chiếc cúc đen nhỏ. Và những chiếc cúc én ấy như muốn báo với người làng một mùa ấm êm sắp tới.

Én đầu mùa bạo dạn, chúng dừng lại rất lâu trên đồng làng, vỗ cánh lượn đi lượn lại trên đám lúa non. Lúc đầu một vài con, sau là từng đàn, cứ thế chúng kéo nhau về làm dạ hội chính giữa đồng làng. Mắt lũ trẻ rói lên theo nắng xuân để chuẩn bị chơi một trò mới mà chỉ độ này mới có. Cái bẫy én rất đơn giản, đứa nào cũng có thể tự làm được. Lấy đoạn tre ngắn, một đầu chẻ ra rồi nêm vào giữa nét chẻ một hòn đá để tạo thành cái nạng chãng ba. Dùng sợi chỉ buộc qua một cái vòng thòng lọng. Mồi bẫy én là ruồi, ruồi đen nhỏ hoặc ruồi xanh càng tốt. Bắt ruồi xong thì cột vào giữa cái vòng dây chỉ thòng lọng đó. Nhớ là phải dùng chỉ mảnh để én không phát hiện ra. Cắm bẫy giữa đồng, để cái chặng mồi cao hơn ngọn lúa chừng một gang tay. Én về ngang đồng thường bay sà sà thấp ngang mặt ngọn lúa để tìm mồi, thế nên phải đặt bẫy sao cho đánh lừa được chúng. Giữa một cánh đồng mênh mang lúa xanh, tự dưng nổi lên chấm đen con ruồi mồi, lũ én tranh nhau bay đến đớp và cái dây thòng lọng thắt lại.

Hôm thằng Cưng làm bẫy, mấy đứa tôi ngồi quanh xem nó vót tre buộc chỉ, rồi về nhà làm theo. Con nít làng tôi chơi với nhau và học nhau là chính, tất cả những trò chơi hay kinh nghiệm làm đồng đều thế cả, một đứa biết thì tất cả biết, không giữ riêng mình làm gì.

Làm xong bẫy và nơm mồi ruồi, chúng tôi mỗi đứa cầm theo độ dăm cái bẫy ra đồng, chia nhau vùng ruộng và cắm bẫy. Cắm xong thì kéo nhau vào trong ngõ đứng chờ. Nắng rói mấy tia hồng hồng xuyên qua lớp sương mai, đàn chim én bay ngang qua, lượn đi lượn lại trên những chiếc bẫy. Khi một con én mắc vào chiếc bẫy nào đó là cả lũ con nít lại réo toáng lên cùng nhau chạy ra xem.

Chúng tôi lấy bẫy én làm trò để chơi cho vui là chính. Thế nên mỗi khi có én mắc bẫy thì gỡ ra, chuyền tay nhau mỗi đứa nắm giữ một lúc như cầm lấy cái may mắn đầu năm, xong rồi thả ra cho chúng bay đi. Cánh én được trả tự do vút thẳng lên bay lượn mấy vòng mừng rỡ. Cũng nhờ sự độ lượng nhân ái ấy mà năm nào vào mùa xuân én cũng về nhiều; bởi chúng quý con nít làng tôi, chúng biết lũ trẻ sẽ không nhẫn tâm giết hại nên chẳng ngại ngần lấy mình ra làm trò cùng vui.


Những thằng Cưng, thằng Hụ, thằng Tí, con Xíu và tôi ngày ấy giờ lớn cả rồi. Bầy én năm xưa chắc cũng ít về lại, có con đã chết và con nào còn sống chắc cũng già lắm. Nhưng mùa xuân thì cứ trẻ mãi, mỗi năm đúng hẹn lại về. Trong cái miên man suy tưởng ấy, ai như tôi đang khóc!
Có một cánh én vừa vút ra từ ngực tôi, vượt muôn ngàn dặm trở về làng. Và tôi nghe từ phía cánh đồng trước nhà mình những tiếng reo vui của lũ con nít.

HOÀNG CÔNG DANH

ĐỌC THÊM

Mạn đàm về thơ
Xuân quê, thơ
Nỗi đau Quảng Trị, thơ
NẮNG QUÊ, tùy bút
READ MORE - HOÀNG CÔNG DANH - BẦY ÉN MÙA XUÂN

Truyện ngắn của NGUYỄN KHẮC PHƯỚC

READ MORE - Truyện ngắn của NGUYỄN KHẮC PHƯỚC

Thursday, August 13, 2009

Phạm Xuân Dũng - NỖI NHỚ MÙA HÈ




Có những mùa hè không hề trở lại
Chỉ tiếng ve trĩu cánh phượng hồng
Trang sách cũ xa rồi, xa mãi
Ngân khúc nhạc lòng trong nỗi bâng khuâng.

Người năm cũ tay còn nguyên dấu mực
Hay đã phôi phai chừng ấy dặm trường
Ai lên bảng ấp úng hoài chưa thuộc
Ai dưới lớp nhìn mắt thoáng rưng rưng.

Mùa hè ấy có hoa và có bướm
Có áo dài sáng trắng đường đi
Bạn bè đọc tên trêu đùa tinh nghịch
Hai đứa nhìn nhau đỏ mặt thầm thì.

Ai còn giữ mùa hè trong lưu bút
Chép bài thơ vụng dại học trò
Ai gặp lại, ai xa rồi mất hút
Để sớm mai này cũng hóa xa xưa ...


PHẠM XUÂN DŨNG
Đài PTTH Quảng Trị
READ MORE - Phạm Xuân Dũng - NỖI NHỚ MÙA HÈ

Wednesday, August 12, 2009

PHẠM BÁ NHƠN- CHÙM THƠ



MƯA TRÊN ĐẤT MẸ - Thơ Phạm Bá nhơn - Nhạc Võ Công Diên - Ca sĩ Hoàng Yến*








Mưa Trên Đất Mẹ


Suốt mấy ngày ni mưa rỉ rã

Trời như đang muốn ngã vào đông

Mây tím buồn vương gom thành vũng

Chảy nước tràn sông ngập ruộng đồng.


Mưa lất phất bay, gió heo may

Lâu nay luẩn quẩn mãi nơi này

Mỗi mùa hành tội dăm bảy trận

Như vẫn theo đòi món nợ vay.


Thương lắm quê ơi những tháng ngày

Miền Trung lụt lội mấy năm nay

Mưa dầm nắng hạn rồi bão tố

Nối tiếp như đang cố đọa đày.



Đã chán chê rồi, thôi đừng nữa

Thôi đừng rơi xuống nỗi dây dưa

Phải chăng trời giận hờn ai rứa

Mà cứ mưa chi mãi chẳng vừa.



Dòng Sông Quê Cũ


Có một dòng sông một thời thơ ấu

Mặt nước long lanh trong suốt vô ngần

Những chuyến đò chiều chở nặng nghĩa ân

Bến cũ quen chân mỗi lần theo mẹ



Thuở bé qua ngang đôi bờ lặng lẽ

Giờ đây quạnh quẽ vắng mẹ đi về

Một nỗi niềm riêng một khúc sông quê

Bóng dáng con đê nằm chờ cơn lũ



Những tháng ngày trôi nỗi lòng ấp ủ

Dòng sông quê cũ chảy mãi trong tôi

Giữa chốn xa xôi kiếp người bươn chãi

Nước vẫn về xuôi thắm mát quanh đời.


*Người đưa ca khúc này lên Zing.MP3 đã nhầm lẫn tên ca sĩ.

ĐỌC THÊM

Thơ Phạm Bá Nhơn, phambanhon.com


TRẦN HỮU TÁ - ĐÔI GIÒNG CẢM XÚC...
READ MORE - PHẠM BÁ NHƠN- CHÙM THƠ

Monday, August 10, 2009

CHÙM ẢNH - Mai Lĩnh


Cơi trầu

















Xế chiều

























Bà lão bán chanh





















Chợ chiều


















Ngọt ngào


























Bà Chín






XEM THÊM

Photo Gallery 2
READ MORE - CHÙM ẢNH - Mai Lĩnh

Sunday, August 9, 2009

CAO HỮU ĐIỀN







TRỞ LẠI ĐÔNG HÀ
Cao Hữu Điền

Tôi nay trở lại Đông Hà
Ngẩn ngơ tôi hỏi tôi là ai đây!
Tôi là ai của hôm nay
Tôi là ai của những ngày năm xưa


ĐỌC THÊM
Lời ca khúc
READ MORE - CAO HỮU ĐIỀN

BÙI PHƯỚC VĨNH - TÌNH LỠ





Ngày xưa tôi cũng yêu nàng
Nhưng chưa viết kịp vài hàng gởi trao
Để rồi khi cách xa nhau
Bao nhiêu thương nhớ khổ đau dâng tràn
Chao ôi tình lỡ muộn màng
Thôi đành chấp nhận hai đàng cách xa
Giờ ngồi nhắc chuyện tình ta
Sao ngây thơ quá thật là đáng yêu
Bây giờ nắng sớm mưa chiều
Tóc sương điểm bạc da nhiều vết nhăn
Em giờ một cõi xa xăm
Cô đơn phận gái tháng năm mỏi mòn
Thương em ý chí sắt son
Một mình vẫn bước trên con đường đời
Trách người rồi lại trách trời
Sao bắt em chịu một đời cô đơn.

BPV


ĐỌC THÊM
Chiều quê, thơ
READ MORE - BÙI PHƯỚC VĨNH - TÌNH LỠ

Saturday, August 8, 2009

NGUYỄN TƯỜNG, Tiếng hát chim cà lơi




Tiếng Hát Chim Cà Lơi


Nguyễn Tường




Còn nhớ trong tôi tiếng hát chim cà lơi

"Trời không cho tôi làm tổ trên trời

Làm tổ dưới đất mất con, mất trứng"

Con chim vút bay lên cao rồi vút xuống

Cứ muôn đời điệp khúc hát vu vơ

Lũ chúng tôi những đứa trẻ học trò

Bãi động sau làng là sân chơi tuổi nhỏ

Tiếng hát chim cà lơi cứ miệt mài muôn thuở

Như số kiếp ông trời đặt dưới đất sinh sôi

Tiếng hát thở than hay tiếng hát yêu đời

Làm sao hiểu, chim không bày triết lý

Tuổi học sinh, mang tâm hồn đứa trẻ

Lấy đời chim làm thỏa mãn trò chơi

Những tổ chim non bên bụi cỏ, chôn vùi

Là khám phá, là tiếng cười ngây ngất

Tôi được niềm vui, chim đành phải mất

Một kỳ công lót tổ, bới tìm cây

Những chú chim con, những ổ trứng đầy

Cõi hạnh phúc trời ban cho giữa bãi

Nào ai đã dạy tôi, tình thương yêu muôn loại

Chim cứ bay lên, chim kêu mãi muôn đời

"Trời không cho tôi làm tổ trên trời

Làm tổ dưới đất mất con. mất trứng"

Mấy chục năm nay, làng không còn đất trống

Đã lắm đổi thay, như cuộc sống con người

Vẫn vọng trong tôi, tiếng hát chim cà lơi

Ở những mảnh đời con người dưới đất

Ở bạn bè tôi, còn loay hoay kiếm chác

Những đồng xu nuôi con sống qua ngày

Ở bác nông dân luôn tay cấy, tay cày

Đồng lúa được mùa, đồng tiền mất giá

Ở những chị nghèo xơ hàng tôm, hàng cá

Dám ước mơ gì ngoài hai bữa áo cơm

Ở những thanh niên, sờn chỉ áo công nhân

Chờ được lãnh lương, mồ hôi ướt đẫm

Ở những cô em, đứng bên đường, môi thắm

Đợi những dân chơi lắm bạc, thiếu tình thương

Tiếng hát chim cà lơi, nghe hát giữa đời thường

Lời tố cáo, tội ác tôi ngày nhỏ dại

Tội ác ngày xưa, giờ đây tôi vẫn thấy

Ở những con người sống không mấy lòng nhân


Sài Gòn sáng 8/8/2009





NGỤ NGÔN TẬP 2

1/ NÓI DỐI

Cậu chăn bò bày trò chơi lạ

Lôi bà con thiên hạ tham gia

Ngày kia trời mới sáng ra

Cậu bèn lớn tiếng kêu la khắp làng

" Bớ bà con Cọp hoang đang tới

Mau ra ngay cứu với, Bò đây !"

Cả làng gậy gộc chạy ngay

Cậu chăn được dịp vỗ tay reo cười

Trò con nít, ai người trách móc

Người lớn đây đã học trò này

Nói dối là chuyện thường ngày

Có chi lạ lẫm, về ngay đi làm

Một hôm nọ làng đang ngon giấc

Cọp hoang kia về thật mấy con

Bò bầy, cứ thịt xơi ngon

Cậu chăn la mấy chẳng còn ai tin

Sáng 14.9.09

Nguyễn Tường





ĐỌC TIẾP

Tình yêu bắt đầu từ đó, thơ
Tình yêu ông cháu, thơ
Ngụ ngôn tập 2, tiếp theo
NGỤ NGÔN PHỔ THƠ 1
READ MORE - NGUYỄN TƯỜNG, Tiếng hát chim cà lơi